Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 22/12/2007 15:23 (GMT+7)

Những tác động của lực thuỷ triều trong hệ Mặt trời

I. Bài toán điển hình về lực thuỷ triều

Bất cứ một thiên thể nào trong vũ trụ cũng có kích thước và hình dạng nhất định. Như vậy lực hấp dẫn từ một thiên thể bên cạnh tác dụng lên những vị trí khác nhau của thiên thể đó thì khác nhau. Sự chênh lệch về lực tác dụng đó chính là nguyên nhân gây ra lực thuỷ triều. Tất nhiên lực thuỷ triều chỉ đáng kể khi ta xem xét đối với các thiên thể lớn trong vũ trụ.


hình 1

Các hành tinh có dạng cầu còn các sao chổi, tiểu hành tinh, thiên thạch có hình dạng không xác định. Việc xét tương tác hấp dẫn giữa hai phần khác nhau của thiên thể là tương đối phức tạp. Đểđơn giản hoá ta đưa ra mô hình của một vệ tinh được ghép lại từ hai quả cầu đồng nhất A và B. Mỗi quả có khối lượng m bán kính r được liên kết bằng lực hấp dẫn giữa chúng. Vệ tinh bay trên quỹ đạotròn ở khoảng cách L so với tâm Trái Đất (TĐ) (hình 1).

Gia tốc trọng trường do TĐ gây ra tại hai điểm A và C là (hình 2):


hình 2

Và g C= GM/L 2

Theo phương nối tâm giữa hai quả cầu, sự chênh lệch về gia tốc trọng trường giữa hai điểm A và C là:

D g = (g A– g C) = 2GM.r/L 3

Lực tách hai quả cầu (hay còn gọi là lực thuỷ triều):

F t= GMm.2r/L 3

Nhiều bạn có thể thắc mắc rằng tại sao ta không tính lực tách bằng cách lấy trực tiếp hiệu hai gia tốc trọng trường tại tâm cầu A và B. Đó là vì ta đang xét trong hệ quy chiếu gắn với khối tâm của hệ. Sự tách nhau giữa hai quả cầu chỉ là chuyển động tương đối giữa mỗi quả và khối tâm chứ không phải là tương đối giữa hai quả cầu.

Giới hạn Roche:


hình 3

Hai quả cầu sẽ tách ra khỏi nhau nếu lực thuỷ triều lớn hơn lực hấp dẫn giữa chúng. Cụ thể là (hình 3):

Trong đó rmlà khối lượng riêng của hai quả cầu, rTDlà khối lượng riêng của Trái đất, R là bán kính Trái đất.


hình 4

Năm 1850 Roche đã đưa ra giới hạn khoảng cách đối với một thiên thể cầu để bó bị vỡ trong trường hấp dẫn của hành tinh (hình 4)

Hệ số 2,456 có được là do dạng đặc biệt của hình cầu. Ta phải chia hình cầu thành hai phần bán cầu. Lực thuỷ triều phải lớn hơn lực hấp dẫn giữa hai bán cầu đó.

Mômen quay tác dụng lên vệ tinh(hình 5)


hình 5

Một mô hình vệ tinh gồm hai chất điểm giống nhau A, B nối với nhau bằng một thanh cứng khối lượng không đáng kể (AB = 2b). Ta cần xác định mô men quay tác dụng lên hệ hai chất điểm này.


hình 6

Mô men đối với trọng tâm G của các lực trọng trường là (hình 6):

Như vậy mômen do lực thuỷ triều tác dụng lên hệ chất điểm tỉ lệ nghịch với lập phương khoảng cách từ hệ tới hành tinh. Với a nhỏ, vệ tinh thực hiện giao động điều hoà quanh vị trí cân bằng.

Ta có phương trình định luật II Newton cho chuyển động quay (hình 7):


hình 7

Phương trình trên chính là phương trình vi phân mô tả dao động điều hoà. Chukì của dao động là (hình 8):


hình 8

Đối với kính thiên văn vũ trụ Hubble có r = 7000 km chu kì giao động của nó sẽ là 56 phút. Các bạn sẽ hiểu được sự vận hành phức tạp đến thế nào của kính thiên văn này. Khi kính hướng đến một thiên thể nào đó, lực thuỷ triều lại cứ cố ý muốn xoay nó lệch đi. Mà trong đo đạc thiên văn sai lệch một góc nhỏ cỡ phần của giây cũng là nghiêm trọng rồi. Để kính định hướng đúng người ta bắt buộc phải sử dụng con quay hồi chuyển được điều khiển bằng máy tính dưới mặt đất.

Chất lượng số một về hình ảnh và độ phức tạp trong xử lý dẫn đến giá trị rất cao của những công trình nghiên cứu bằng kính Hubble.

Suy diễn từ sự kiện sao chổi Schoemaker - Levi 9


hình 9

Đêm 18 tháng 3 năm 1993, hai nhà thiên văn Shoemaker và Levi quan sát bầu trời bằng một kính thiên văn đã phát hiện thấy một thiên thể giống như dải ngọc trai hiện ra trên nền trời tối đen.Qua những quan sát kĩ lưỡng họ đã khẳng định đó là một sao chổi vỡ thành 21 mảnh và quay quanh Mộc tinh. Sau đó họ đã tính được rằng những mảnh sao chổi này sẽ lao vào bầu khí quyển sao Mộc cuốitháng 7 năm 1994. Và sự kiện đã diễn ra đúng như vậy. Sao chổi Shoemaker Levi đã quay quanh Mộc tinh được hàng chục năm nay sau khi bị hút vào trường hấp dẫn của Mộc tinh. Trong quá trình quay đó lựcthuỷ triều đã phá vỡ dần liên kết của khối băng đá trong sao chổi. Tháng 7 năm 1992, sao chổi bay là là trên bầu khí quyển Mộc tinh chỉ ở khoảng cách 50.000 km. Tại vị trí này, lực thuỷ triều là mạnhnhất, đã thế liên kết của băng đá trong sao chổi đã khá lỏng lẻo. Vì vậy sao chổi bị biến dạng và vỡ ra thành từng mảnh. Những mảnh vỡ này bay theo những quỹ đạo elip khác nhau dần lánh xa khỏi hànhtinh. Một năm sau sao chổi cách Mộc tinh xa nhất ở khoảng cách 50.000 km, tại đây quỹ đạo của các mảnh sao chổi bị nhiễu loạn bởi sức hút của Mặt trời. Và kết quả là những mảnh sao chổi xếp thànhhàng dài tiến đến va chạm lần lượt với Mộc tinh. Hiện tượng này đã gây được sự chú ý mạnh mẽ từ phía các nhà khoa học cũng như từ phía công chứng.

Điều mà chúng ta có thể kết luận đó là liên kết lỏng lẻo đến mức nào trong lòng sao chổi. Đây chắc chắn phải là kết quả của một quá trình co giãn lâu dài trong lòng sao chổi khi nó quay quanh Mộc tinh trong hàng chục năm. Sự hiếm có của hiện tượng này được quyết định bởi chi tiết đó. Một sao chổi hay bất kỳ một tiểu hành tinh bình thường nào đều luôn có lực liên kết phân tử lớn hơn nhiều so với lực liên kết hấp dẫn. Vì thế về sau này sẽ không dễ để chúng ta chứng kiến một hiện tượng trong hệ Mặt trời mà lực thuỷ tỉều lại thể hiện rõ đến như vậy.

II. Lý thuyết về hiện tượng thuỷ triều xảy ra trên Trái Đất.

Lực thuỷ triều trong phần mà chúng ta nghiên cứu ngay sau đây lại có những ảnh hưởng trực tiếp đến TĐ. Cụ thể là lực hút của Mặt trăng trong suốt quá trình tồn tại của nó đã tạo ra trên TĐ hiện tượng thuỷ triều, hiện tượng mà mức nước ở cửa sông cửa biển lên xuống theo giờ trong ngày. Hiện tượng này có tầm ảnh hưởng rất lớn đến các quá trình lịch sử của vỏ Trái Đất. Và về mặt lịch sử khoa học, nó còn là một câu đố bí ẩn suốt hàng nghìn năm.

Người đầu tiên đưa ra lý thuyết giải thích đúng đắn cho hiện tượng thuỷ triều không ai khác hơn là Issaac Newton. Cùng với phát minh về định luật vạn vật hấp dẫn, ông đã đưa ra lý thuyết về hiện tượng thuỷ triều trong tác phẩm “ Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên”.

Lý thuyết về lực thuỷ triều hoàn toàn dựa trên cơ sở là định luật vạn vật hấp dẫn. Nhưng các bạn có thể sẽ có đôi chút ngạc nhiên, lực thuỷ triều tưởng chừng có sức mạnh khủng khiếp hoá ra chỉ có giá trị không đến phần nghìn của gia tốc trọng trường, và không thể phát hiện được với một con lắc đơn.

Trong phần dưới đây ta bỏ qua sự quay của trái đất quanh trục của nó. Coi rằng bề mặt TĐ phẳng và phủ đầy nước với các thông số sau:


hình 10

Bán kính TĐ: R = 6400 km

Khối lượng TĐ: M = 6.10 24kg

Khoảng cách từ TĐ đến Mặt Trăng: L = 380000 km

Khối lượng Mặt Trăng m T= 7,35.10 22kg

Hằng số hấp dẫn: G = 6,67.10 -11kg.m/s 2

Ta xét lực hấp dẫn do Mặt trăng tác dụng lên những điểm bất kỳ trên bề mặt TĐ. Những điểm nằm ở phần xa Mặt trăng thì chịu một lực nhỏ hơn những điểm ở mặt gần.

Để tính lực thuỷ triều ta cần so sánh lực hút của Mặt trăng ở bề mặt và ở tâm TĐ. Hình vẽ bên (hình 8) biểu diễn phương chiều của lực thủy triều.


hình 11

Chúng ta xét hai điểm của TĐ, đó là tâm C và điểm P bất kì trên bề mặt được định vị bằng góc q như hình vẽ.

Xét thành phần gia tốc hấp dẫn của Mặt trăng theo trục x và y.

F C,x= Gm T/L 2, F C,y= 0

F P,x= Gm T.cos f /s 2

F P,y= - Gm T.sin f /s 2

Gia tốc thuỷ triều chính là sự chênh lệch về gia tốc tại C và P, suy ra lực thuỷ triều D F y= F P– F Chay D F x= Gm T(cos f /s 2– 1/L 2), D F y= - Gm T.cos f /s 2 (1)

Dùng định lý hàm số cosin, ta có:

(hình 12)

Vì R << L nên cos f@ 1. Thay vào (1), ta được:

D F x= 2Gm T.Rcos q /L 3

Vì: sin f@ R.sin q /L, 1/s 2@ 1/L 2ÞD F y= - Gm T.Rsin q /L 3


hình 13

Phân tích các thành phần gia tốc theo phương tiếp tuyến và pháp tuyến với mặt cầu của TĐ, ta được (hình 14):


hình 14

Giá trị của gia tốc thuỷ triều là rất nhỏ so với gia tốc trọng trường, vào khoảng 10 -5g. Tuy vậy, những tác động của nó tới mặt biển thì rất đáng kể, hàng mét nước đuợc dâng lênhạ


hình 15

xuống trong một ngày. Trong phần tiếp theo ta sẽ tới mực nước thuỷ triều.

Đặt h là mực nước dâng lên tại một điểm bất kỳ trên bề mặt Trái Đất. Với chế độ cân bằng


hình 16

tĩnh, ta có (hình 16)

Thay số: Giá trị lớn nhất của h là 35,4 cm đạt được khi q bằng 0 hoặc p . Còn giá trị nhỏ nhất của h là -17,7cm, đạt được khi q bằng p /2 hoặc bằng 3 p /2.

Như vậy độ chênh lệch giữa mức triều cao nhất và thấp nhất trong ngày là vào khoảng 53,1 cm. Dạng cân bằng của bề mặt đại dương luôn là một hình phỏng cầu có trục đối xứng luôn luôn hướng đến Mặt trăng.


hình 17

Ngoài ra, Mặt trời cũng gây ra thuỷ triều với tác dụng chỉ bằng một nửa do Mặt trăng gây ra. (hình 17).


hình 18

Độ chênh của h’ vào khoảng 24,4 cm. Trong khoảng thời gian có nhật thực và nguyệt thực độ chênh lệch mức thuỷ triều cao thấp lên đến h max= 77,5 cm. Trong khoảng thời gian của tuầntrăng non và già, cách nhau 14 ngày, mức chênh lệch của thuỷ triều cũng lớn hơn bình thường nhưng vẫn nhỏ hơn h maxvì mặt phẳng quỹ đạo của Mặt trăng quanh TĐ và của TĐ quanh Mặt trời lệchnhau.

III. Sự đồng bộ của hệ Trái đất và Mặt trăng


hình 19

Trục của lớp nước luôn có xu hướng hướng đến Mặt trăng và có vận tốc góc bằng vận tốc góc của Mặt trăng. Trong khi đó phần rắn của TĐ tiếp tục quay với vận tốc góc lớn hơn gấp nhiều lần (28lần). Vì vậy quả địa cầu coi như đang trượt trong một lớp nước. Sự trượt tất nhiên là phải gây ra lực ma sát kéo trục lớp nước làm với đường nối tâm TĐ - Mặt trăng một góc nhỏ q . Lực ma sát cũng làm chuyển động quay của TĐ giảm một cách chậm chạp qua hàng triệu năm. Tất nhiên không thể đoán nhận được độlớn của lực ma sát đó một cách trực tiếp. Ta sẽ tiếp cận vấn đề bằng những phương trình đã biết trong bài viết này.

Rõ ràng là lớp nước trên bề mặt với sự phân bố không đều và đối xứng trục có thể mô hình hoá thành một “lưỡng cực chất điểm”, khối lượng mỗi chất điểm là m hd. Ta có mômen lực tác dụng lên khối điểm này do sức hút của Mặt trăng: (hình 20).


hình 20

Mômen này cân bằng với mômen do lực ma sát của bề mặt TĐ tác dụng lên khối lỏng, và cũng chính bằng mômen cản chuyển động quay của TĐ. Lại có khối lượng hiệu dụng m hdtỉ lệ với độ dâng h của thuỷ triều, tức là tỉ lệ với 1/L 3. Kết hợp với phương trình ở trên mômen lực cản chuyển động quay của TĐ tỉ lệ với 1/L 6.

Vận tốc quay của TĐ giảm, mômen động lượng của cả hệ vẫn phải bảo toàn nên Mặt trăng dần rời xa TĐ. Hiện tại tốc độ rời xa đó là 3,8 cm một năm. Đến khi vận tốc góc của chuyển động tự quay của TĐ bằng vận tốc góc của Mặt trăng thì góc q bằng không, không còn mômen cản, Trái đất và Mặt trăng trở thành một hệ đồng bộ. Với những phép tính sơ cấp phức tạp hơn bạn có thể xác định được sau bao lâu Mặt trăng sẽ đồng bộ với TĐ. Thời gian đó vào khoảng 2 tỉ năm. Thực tế thì thời gian cần thiết sẽ không lớn như vậy vì bản thân TĐ không phải có dạng cấu lý tưởng, sự méo mó về hình dạng lên đến hàng chục cây số còn nhận được mômen cản lớn hơn từ phía Mặt trăng.

Lực thuỷ triều do TĐ tác dụng lên Mặt trăng cũng làm cho TĐ đồng bộ với Mặt trăng. Tất nhiên là với sức hút lớn hơn của TĐ và khối lượng nhỏ bé của Mặt trăng thì quá trình đó đã diễn ra nhanh hơn nhiều, có lẽ chỉ khoảng vài trăm triệu năm sau khi có Mặt trăng quay quanh Trái đất. Sau 1 hoặc 2 tỉ năm nữa Mặt trăng cũng sẽ đồng bộ với TĐ. Khi đó người đứng trên TĐ hay Mặt trăng chỉ có thể nhìn thấy một nửa kia của thiên thể kia. Phải sau 2 tháng TĐ mới quay nổi một vòng. Đồng thời bạn cũng nhìn thấy Mặt trăng nhỏ hơn hiện tại. Không biết lúc đó các thế hệ thiếu nhi trên mảnh đất chữ S của chúng ta có còn được đón Tết trung thu nữa hay không?

Trong hệ Mặt trời đã có một hệ đồng bộ hoàn toàn, đó là Diêm Vương tinh và vệ tinh Charon của nó.

Còn trên quy mô của các thiên hà các nhà thiên văn cũng đã quan sát được một số hiện tượng đáng kể về lực thuỷ triều. Một số thiên hà elip có mặt phẳng bị vênh lên do sức hút của thiên hà bên cạnh.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...