Nét văn hoá ẩm thực Ê-đê, Mnông ở Dak Lăk
Đồng bào Ê-đê, khi ăn rau quả, thường nấu, luộc, xào với thịt, cá, hay ăn ghém. Các thứ đỗ, mè, cũng thường thấy trong các bữa ăn.
Khi làm thịt mỗi con vật, họ cắt tiết, và bao giờ cũng phải thui rồi mới vặt lông, kể cả các loài có lông vũ. Các loại thịt thì nước, luộc và nấu với rau quả, riêng thịt gà, thịt vịt, họ chỉ nấu món canh và luộc. Món thịt nướng bình thường gọi là ăm,nếu nướng cặp bằng tre có ướp gia vị gọi là ghang. Món thịt luộc gọi là tuk. Thịt nấu canh với rau quả gọi là tuk djam. Thịt kho, nấu, ninh nhừ cũng gọi như thế. Người ta nấu món thịt ướp gia vị trong ống tre lồ ô, món “thịt lam” này gọi là crim brông.Khi nướng thịt trâu, bò, để thịt chín và ăn nguội. Các loại thịt bắp, thịt mông, thịt vai của heo, trâu, bò sau khi thui chín cũng được ưa thích. Đàn ông Ê-đê cũng thích món tiết canh trâu, bò, dê. Món thịt băm sống trộn với huyết tươi ăn liền gọi là mtăh. Món tiết canh heo làm giống kiểu người Kinh thì gọi là priêng lap. Các thứ thịt rán mỡ để ăn dần, thức ăn cũng có các món quay, xào, kho ngọt, nấu đông…
Đồng bào Ê-đê làm món cá nướng gồm món ăm và món ghang. Cá luộc cũng gọi là tuk djam. Riêng món cá gói nướng gọi là kơumlà món ăn khá đặc biệt. Cá làm sạch ướp gia vị, muối, ớt, hành, hẹ, gừng, tỏi, sả, sau đùm kín lá chuối xanh rồi nướng. Người ta cho rằng món cá nướng như vậy để ngày hôm sau ăn thì mới ngon. Họ cũng có thói quen ăn sống những con cá nhỏ. Thức ăn dự trữ được làm thành mắm từ tôm, cua, cá, tép có cho gia vị vào gọi là lih…
Tục ăn trầu, hút thuốc lá cũng là tập quán của người Ê-đê, phổ biến ở những người tuổi trên 40. Họ ăn trầu vỏ, trầu thuốc, hút bằng thuốc lá cuốn hoặc ống điếu. Chủ nhà cũng hay tặng khách những nhúm thuốc lá đựng trong vò sành để tỏ lòng hiếu khách.
Trong các gia đình Êđê, người đàn bà là chủ nhà, người chủ bếp, quản lý kho lương thực, giữ ngọn lửa và lo toan những bữa ăn hàng ngày cho các thành viên. Các chị em gái, các con gái hay cháu gái cũng là người giúp việc.
Khẩu phần ăn của mọi thành viên trong gia đình được phân phối theo nguyên tắc bình quân. Có ưu tiên cho người già, trẻ con, người ốm, trẻ sơ sinh và sản phụ. Khi có khách, mọi người đều có nghĩa vụ đón tiếp. Mỗi người sử dụng riêng một quả bầu khô để uống nước hàng ngày, mà không dùng chung và không dùng lẫn của nhau… Đồng bào cũng kiêng cữ để bảo vệ các nguồn nước tự nhiên cho được trong sạch. Hiện nay, họ đã có thói quen dùng nước đun sôi, nước giếng sinh hoạt và dùng nước chè mạn, cà phê để uống.
Rượu cần là thức uống thường xuyên được đồng bào ưa dùng trong lúc khát, vừa là nhu cầu vật chất, cũng là nhu cầu tinh thần để nói chuyện, giao tiếp. Nam, nữ, trẻ, già Ê-đê đều uống được, phần nhiều nhà nào cũng có các ché rượu cần, họ sử dụng để cúng thần, hiếu hỉ, rước hồn luá, chúc sức khoẻ, cầu mùa, giải hạn… Mía là một thứ giải khát được các gia đình Ê-đê trồng, nhưng họ không kéo mật làm đường. Ngày nay, do sự phát triển kinh tế theo từng vùng, đã có nhiều gia đình Ê-đê tham gia trồng mía phục vụ cho làm đường mật, bán cho nhà máy.
Xưa kia đồng bào Ê-đê lấy mật ong từ rừng, ngày nay, ngoài lấy mật ong từ rừng thiên nhiên, họ đã biết nuôi ong lấy mật tại các vườn trong gia đình. Họ cũng trồng các loại trái cây cung cấp nhiều chất ngọt và vitamin như mít, xoài, đu đủ, cam, quýt, chôm chôm, trứng gà (ô môi), thanh long, dứa, dưa gang (dưa bở), dưa leo (dưa chuột). Hiện nay, nhiều vùng cũng trồng sầu riêng, măng cụt, vú sữa, bưởi, ổi, bơ… Họ cũng có nhiều loại sản phẩm trái cây từ rừng thiên nhiên như giống xiêm rừng, chôm chôm, nhãn rừng. Các loại cây chất bột lấy từ rừng như củ mài. Trước kia thiếu muối họ dùng các cây tre, nứa, cỏ tranh đốt hoà nước làm muối gọi là ea bao. Ngày nay, muối được cung cấp tới các buôn làng rất đầy đủ.