Năm Dần nói về cây Vuốt hùm
Cây leo trườn, có khi mọc rất dài, cành khỏe mọc vươn dài, hình trụ, có nhiều gai nhỏ hình nón. Lá kép hai lần lông chim chẵn, mọc so le, có lá kèm, cuống chung to, dài 30 - 40cm có cạnh dẹt, la chét 8 - 11 đôi, mọc đối hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 2,5 - 4,5cm, rộng 1,5 - 2,5cm, gốc tròn hoặc hơi lệch, đầu tù hơi nhọn, mặt dưới có lông nhỏ, cuống lá có gai.
Cụm hoa mọc ở ngoài kẽ lám thành chùm dài 12 - 20cm, có lông mềm, có gai; lá bắc hình dùi dài 1cm; đài có 5 răng nhỏ; tràng 5 cánh mỏng, 4 cánh hình trái xoan ngược, còn cánh kia gập lại ở giữa, nhị 10, nhụy ngắn có lông; bầu có cuống, có 2 noãn.
Quả hơi tròn dẹt, dài 7 - 8 cm, rộng 4cm, lồi ở hai mặt, có nhiều gai nhọn, giòn, chứa 1 - 2 hột to gần hình cầu đường kính 15 x 13mm, vỏ dày 2 mm, rất rắn, màu xanh mát mèo, có đốm sậm.
![]() |
Vuốt hùm phân bổ chủ yếu ở vùng nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Ấn Độ, Myanma, Srilanca, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Tại nước ta, Vuốt hùm mọc hoang dại phổ biến ở khắp nơi, phân bổ rải rác khắp các tỉnh miền núi, trung du và đôi khi thấy cả ở đồng bằng. Ở ven rừng, cây mọc dựa hoặc leo lên cây khác; ở đất trống, cây mọc thành bụi và có thể đứng thẳng. Vuốt hùm là cây mọc nhanh, có nhiều gai nên cũng thường được trồng làm bờ rào nương rẫy, hoặc làm ranh giới phân lô trên đồng cỏ chăn nuôi gia súc. Khi mọc hoang ở bãi biển, các hột bị sóng mài trở thành nhẵn bóng giống viên ngọc màu trắng xanh như sừng. Những tỉnh có nhiều Móc mèo núi là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Kiên Giang, Bến Tre, Côn Đảo, Phú Quốc…
![]() |
Bộ phận dùng
Người ta dùng thân, lá, hột làm thuốc. Hái quả phơi khô, đập lấy hột, phơi lại cho thật khô.
Thành phần hóa học
Hột Vuốt hùm chứa dầu béo 23,9%; nhựa đắng 1,9%; đường 5,45%; muối vô cơ 4,5%, chất đạm (albumin) hòa tan 3,4%; chất đạm không hòa tan 18,2%; tinh bột 37,8%.
Nhựa là thành phần hoạt chất đắng dưới dạng bột vô định hình, trắng, tan trong các dung môi thông thường nhưng ít tan trong ete dầu hỏa. Có tác giả gọi nhựa này là bonducin và cho rằng đây là hoạt chất của bột.
Hột Vuốt hùm có nhiều hoạt chất đắng là α, β,d,x- caesalpin, caesalpin F là các furanoditerpen.
Rễ chứa furanoditerpen và cassane diterpen.
Lá chứa brazilin, bonducin và một furanoditerpen là caesalpin F.
Quả chứa D- (+) – pinitol.
Vuốt hùm còn có (+) – ononitol.
![]() |
Tính vị, công năng
Vuốt hùm có vị đắng, hơi the, tính mát, có tác dụng khử, chỉ thống, thanh nhiệt, giải độc, sát trùng.
Hoạt tính sinh học
Tác dụng dược lý
Cao chiết từ lá Vuốt hùm có tác dụng tăng cường sức co bóp của tử cung chuột cống trắng có chửa. Tác dụng này có thể so sánh với tác dụng của acetylcholin.
Cao chiết nước và cao chiết cồn ethanol 50% từ một Móc mèo núi có tác dụng hạ đường huyết, chống đường huyết tăng cao, hạ lipid máu trên chuột thí nghiệm với liều 100 mg/kg sau dùng thuốc 4 giờ. Dạng cao chiết nước có tác dụng hạ đường huyết kéo dài hơn so với dạng cao chiết cồn.
Thành phần đắng của Móc mèo núi có tác dụng kháng khuẩn, thí nghiệm trên thỏ có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu và diệt giun. Thành phần đắng với dạng chiết cồn từ hột Móc mèo núi khi thí nghiệm trên chó thấy có tác dụng hạ huyết áp nhẹ, đối với tim ếch cô lập lại có tác dụng ức chế sức co bóp.
Công dụng
Hột Vuốt hùm được dùng làm thuốc chữa sốt và thuốc bổ với liều 0,5 – 1 g/lần, ngày uống 2 – 3 lần. Ngoài ra, còn dùng chữa lỵ, ho và tẩy giun. Thường dùng phối hợp với Hồ tiêu, lượng bằng nhau.
Kinh nghiệm dân gian dùng hột Vuốt hùm làm cục hút nọc rắn độc. Đi rừng mang theo hột Vuốt hùm: nếu bị rắn cắn, đặt ngay hột Vuốt hùm vào vết cắn, hột sẽ hút bớt nọc độc ngay.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), hột được xem là có tác dụng bổ thận, dùng trị thận hư và vi hàn.
Ở Philipines, hột Móc mèo núi chữa bệnh dạ dày và làm thuốc tẩy nhẹ. Dùng dưới dạng bột, hột còn có tác dụng chữa sốt.
Ở Thái Lan, lá Móc mèo núi là thuốc gây trung tiện, chữa bệnh đầy hơi, tiểu tiện khó khăn.
Ở Indonesia, lá hoặc bột dùng tẩy giun sán, trị ho.
Ở Papua New Guinea, nước sắc lá chống trầm cảm, chữa rối loạn tâm thần.
Ở Figi, lá non để tẩy giun cho trẻ em, nước sắc lá chữa viêm xoang, nước sắc rễ được dùng trong trường hợp mệt mỏi.
Ở Ấn Độ, lá và cỏ cây làm thuốc điều hòa kinh nguyệt, hạ sốt và trị giun sán.
Ở Madras, bột hột Móc mèo núi chế thành cao xoa, bôi ngoài, chữa tràn dịch tinh mạc (hydrocele) và viêm tinh hoàn.
Ở Ceylon, lá non chữa đau răng và tẩy giun cho trẻ em.
Ở đảo La Reunoin và Madagasca, rễ có tác dụng hạ sốt, trị giun, chữa bệnh lậu. Dầu chiết từ hột điều trị co giật, bại liệt.
Viên Bonducin đã được bác sĩ Isnard, người Pháp, dùng chữa sốt rét với liều 0,1 – 0,2 g/ngày.
Những nghiên cứu mới về bài thuốc chữa bệnh bằng cây Vuốt hùm
Bệnh đái tháo đường
Những người dân thuộc các bộ lạc của Adaman và Nicober Islands đã thúc đẩy nghiên cứu chi tiết về hoạt tính giảm đường huyết của hột cây này trên bệnh đái tháo đường cả týp 1 và týp 2 ở chuột Long Evanss. Những ảnh hưởng hạ thấp đường huyết đã được thấy trên mô hình týp 2 là do hoạt tính gây kích thích tiets ra insulin.
Bằng đường uống là 300 mg/kg trọng lượng cơ thể.
Trị sốt nóng và giảm đau
Dịch trích từ ete dầu hỏa và etanol của hột Móc mèo núi chứa flavonoid, terpenoid, đường tự do và glycosid. Chúng có tác dụng làm hạ sốt và giảm đau khi thí nghiệm trên chuột bạch trưởng thành lớn và nhỏ cùng giới tính với liều lượng là 30, 100 và 300 mg/kg (bằng đường miệng).
Phần trích metanol của cây Móc mèo núi có hoạt tính kháng u nang biểu mô bụng báng đã được thử nghiệm trên chuột bạch Thụy Sĩ, liều lượng 50, 100, 200 và 300 mg/kg trọng lượng cơ thể.
Hiện nay, TS Nguyễn Trung Nhân và cộng sự đang tiếp tục nghiên cứu thành phần hóa học và thử hoạt tính sinh học của cây Móc mèo núi.