Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 14/10/2008 23:33 (GMT+7)

Nam bộ từ sau diệt vong của vương quốc Phù Nam đến cuối thế kỷ XVII

Miền hoang địa gần như vô chủ ấy thực sự được đánh thức khi lớp lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân đến, khoảng đầu thế kỷ XVIII.

Nguồn sử liệu biên niên của nước ta như Gia Định thành thông chícủa Trịnh Hoài Đức, Phủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn, Đại Nam thực lục(Tiền biên); Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chícủa Quốc sử quán triều Nguyễn… cũng như Biên niên sử Khmervà một số tài liệu khác cho biết quá trình khai phá và mở mang miền đất Nam bộ ngày nay của cư dân Việt diễn ra từ rất sớm.

Sự kiện mở đầu cho quá trình xâm nhập của người Việt vào vùng đất Nam bộ được Biên niên sử Khmerchép:

“Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại U Đôn, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một nàng công chúa Việt Nam rất xinh đẹp là con chúa Nguyễn. Hoàng hậu Sam - Đát Việt Nam cho đem nhiều đồng hương tới Campuchia, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ công và có người buôn bán hay vận chuyển hàng hoá” (2).

Hôn lễ giữa vua Chey Chettha II và công chúa Ngọc Vạn (?) diễn ra vào năm 1620. Sau hôn lễ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho gửi quân lính, chiến thuyền và vũ khí giúp Chân Lạp chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm. Đổi lại, vua Chân Lạp cho phép lưu dân người Việt tới lập nghiệp tại một số điểm thưa dân ở phía đông nam vương quốc.

Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu Chey Chettha II cho lập sở thu thuế ở Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé) và cử quan quân đến đóng đồn án ngữ. Nơi chúa Nguyễn đặt sở thuế là Mỗi Xoài, Bà Rịa. Đây là vùng rừng rậm, hoang vắng nhưng cũng là điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ, trên bến dưới thuyền, cảnh tượng mua bán rất sầm uất.

Trong tác phẩm Gia Định thành thông chí,tác giả Trịnh Hoài Đức đã xác định: “Bà Rịa là đầu địa giới trấn Biên Hoà, là đất danh tiếng, cho nên các phủ miền Bắc có câu “Cơm Nai, Rịa cá Rí, Rang”, là vì lấy Đồng Nai - Bà Rịa là đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ ở cả trong đó. Đất ấy lưng dựa núi, mặt nhìn ra biển, rừng rậm che dài, ở trên có Trương tuần để vời gọi những người Man Mạch đến đổi chác, ở dưới có cửa bến để xét hỏi ghe thuyền ra biển; trạm thuỷ, trạm bộ giao tiếp nhau… Có nhiều cửa quan hiểm yếu, có thành trì xưa di chỉ hãy còn, như là quốc đô của vua nào vậy… Khảo sách Tân Đường thưnói: “Nước Bà Lỵ ở thẳng phía đông nam Chiêm Thành, từ cửa biển Giao Châu vượt biển trải qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến. Đất ấy có bãi rộng, nhiều ngựa, cũng gọi tên là Mã Lễ. Tục hay xâm lỗ tai đeo ngọc, dùng một mảnh vải cát bối (vải bông gòn) cuốn ngang lưng. Phía nam có nước Thù Nại, sau đời Vĩnh Huy (tức đời Cao Tông nhà Đường), bị người Chân Lạp thôn tính” (3). Di chỉ của thành trì xưa mà Trịnh Hoài Đức nói phải chăng là kinh đô của nước Bà Lỵ trước khi bị người Chân Lạp thôn tính?

Hôn nhân giữa vua Chey Chettha II và công chúa Ngọc Vạn (?) cùng việc lưu dân người Việt có mặt ở Mỗi Xoài, Bà Rịa cũng được giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christofo Borri (sống tại thị trấn Nước Mặn gần Qui Nhơn từ năm 1618 đến 1622) ghi lại trong hồi ký của mình: “Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập trận và gửi quân sang giúp vua Campuchia - cũng là chàng rể lấy người con gái của chúa. Chúa viện trợ cho nhà vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm”. Christofo Borri cũng mô tả khá chi tiết về phái bộ của chúa Nguyễn đi Campuchia hồi năm 1621: “Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng đứng sau chức Tống trấn. Trước khi lên đường, ông đã để nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ tới kinh U Đôn thì dân chúng Khmer, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh. vì sứ thần đây là người quen thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm đại diện thường trú từ lâu, chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu” (4).

Một giáo sĩ người Pháp là Chevreuil đến thăm Phnom Pênh vào năm 1665 đã thấy “ hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số người được độ 500, mà số theo đạo Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục người” (5).

Tượng Phật - Đồng - thế kỷ IV - VI
Tượng Phật - Đồng - thế kỷ IV - VI
Như vậy, ngay từ đầu thập niên thứ 3 của thế kỷ XVII, những lưu dân người Việt đầu tiên đã có mặt ở miền đất Nam bộ, làng xóm người Việt đã hình thành “người Kinh, người Trung Quốc, người CaoMiên làm nhà ở liền nhau, kết thôn họp chợ, để đón lợi chằm sông rừng núi” (6)/

Từ nửa sau thế kỷ XVII trở đi, quá trình di dân của người Việt và nhập cư của người Hoa vào vùng đất từ phía nam Bình Thuận trở vào ngày càng đông và trải ra trên một địa bàn rộng lớn. Mỗi bước tiến của cư dân Việt, Hoa (mà chủ yếu là người Việt) trên vùng đất mới đều gắn liền với những sự kiện lịch sử liên quan đến quan hệ giữa các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và quốc vương Chân Lạp ở từng mức độ khác nhau (thân thiện, giúp dỡ, bảo hộ hay đối đầu), tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử đương thời. Biên niên sử nước ta đã ghi chép khá tường tận quá trình người Việt khai phá mở mang miền đất Nam bộ với những sự kiện chính:

- Tháng 9 năm Mậu Tuất (1658), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân xâm lấn bờ cõi. Dinh Trấn biên (tức dinh trấn Thái Khang - Phú Yên) báo lên. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai Yến Vũ hầu (tức Tôn Thất Yến) đem quân tiến đánh bắt được Nặc Ông Chân ở Mỗi Xoài đóng gông đưa về hành tại dinh ở Quảng Bình. Chúa Nguyễn dụ tha tội cho Nặc Ông Chân, vẫn phong cho làm vua nước Cao Miên, cho làm phiên thần nộp cống, không để cho dân Phiên xâm nhiễu. Lúc bấy giờ địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai đã có dân lưu nước ta cùng với người Cao Miên để khai khẩn ruộng đất (7).

- Năm Giáp Dần (1674), chúa Nguyễn Phúc Tần sai Cai đạo Nhan Trang dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm đem quân cứu nước Chân Lạp, đánh bại Nặc Ô Đài, lập Nặc Thu làm vua chính, Đặc Nộn làm vua thứ nhì, cùng coi việc nước, hằng năm triều cống (8). Trong đợt hành binh này Diên Phái và Văn Sùng chết ở trong quân. (Diên Phái sau khi chết có ứng hiện linh thiêng, nhiều người cầu đảo. Người Chân Lạp lập đền thờ ở cửa biển Mỹ Tho).

- Năm Kỷ Mùi (1679), tướng cũ nhà Minh là Long Môn Tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm; Tổng binh Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài) và Phó tướng là Trần An Bình đem hơn 3.000 quân, 50 chiếc thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng xin được làm thuộc hạ. Chúa Nguyễn cùng triều thần bàn bạc thấy họ bị thế cùng bức bách nên không nỡ cự tuyệt. Lại thấy đất Đông Phố đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, triều đình chưa rỗi kinh lý, bèn sức cho họ đến đấy khai khẩn để ở. Dương Ngạn Địch đưa quân đến cửa biển Soi Rạp (Lôi Rạp hay Xoài Rạp) và cửa Đại, cửa Tiểu (đều thuộc Định Tường), đóng ở xứ Mỹ Tho. Trần Thượng Xuyên đem quân đến cửa biển Cần Giờ, đóng ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai, vỡ đất phá hoang, dựng làm phố chợ, buôn bán giao thông với người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và. Đông Phố (hay còn gọi là Cù lao Phố) trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, hưng thịnh trong gần một thế kỷ từ khi Trần Thượng Xuyên mở mang, khai khẩn cho đến năm 1775.

Tác giả Trịnh Hoài Đức mô tả về cảnh buôn bán sầm uất ở Đông Phố như sau: “Phố lớn Nông Nại ở đầu phía tây bãi Đại Phố. Khi mới khai thác Trần Thượng Xuyên tướng quân chiêu tập người lái buôn Trung Quốc lập ra phố xá, nhà ngói tường vôi lầu cao chót vót, quán mấy tầng, rực rỡ bên sông dưới ánh mặt trời, liên tục năm dặm, mở vạch ba đường phố. Phố lớn lát đường đá trắng, phố ngang lát đường đá ong, phố nhỏ lát đường đá xanh, đường bằng như đá mài, khách thương họp đông thuyền biển thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một nơi đại đô hội. Nhà buôn to giàu chỉ ở đây là nhiều” (9).

Ấm - Đất nung - thế kỷ IV - VI
Ấm - Đất nung - thế kỷ IV - VI
- Năm Mậu Dần (1698), bắt đầu đặt phủ Gia Định. Tháng 2, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất Cao Miên (Đại Nam thực lục đều chép là Chân Lạp), lấyđất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai (Lộc Dã) làm phủ Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà), xứ Sài Gòn (hay Sài Côn) làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt cácquan chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để giữ và chăm dân. Nha thuộc thì có hai ty Xá sai và Tướng thần lại để làm việc; quân lính thì có tinh binh và thuộc binh thuỷ bộ các cơ đội thuyền để hộ vệ; mở đấtđai nghìn dặm, được dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ dân lưu tán ở châu Bố Chính trở vào để ở cho đông. Đặt các xã thôn phường ấp, chia cắt địa phận, trưng chiếm ruộng đất, chuyển định thuế điền thuế đinh,làm sổ đinh, sổ điền. Từ đấy con cháu người Trung Quốc ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà; ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương, đều biên vào sổ hộ khẩu.

Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu một mốc rất quan trọng trong quá trình khai phá mở mang vùng đất Nam bộ thời các chúa Nguyễn. Mặc dù trước đó gần 8 thập kỷ, lưu dân người Việt đã có mặt ở một số địa bàn nhưng việc khai phá của lớp cư dân đầu tiên này vẫn mang tính tự phát, chủ yếu là lo việc mưu sinh chứ không do chính quyền tổ chức và và quản lý. Đến năm 1698, các chúa Nguyễn chính thức hoạch định miền đất Sài Gòn - Gia Định vào bản đồ của xứ Đàng Trong, xếp đặt các đơn vị hành chính và bộ máy quản lý xuống đến tận thôn xã. Như vậy, từ thời điểm này các chúa Nguyễn đã áp đặt được quyền lực thực tế của mình trong việc quản lý ruộng đất, hộ khẩu và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên cũng như nguồn thu thuế qua việc trao đổi giao thương với các thương nhân các nước trên vùng đất mới mở. Việc nhập cư của người Việt và người Hoa vào miền đất Nam bộ ngày càng có tổ chức và quy mô hơn.

Những người đi tiên phong trong công cuộc khai phá ấy phần lớn là những nông dân nghèo miền Trung không chịu nổi ách áp bức của chế độ đương thưòi, hoặc trốn tránh binh dịch, lao dịch trong cuộc chiến tranh tương tàn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Họ lần lượt tiến vào miền đất mới và cũng là miền đất hứa bằng đường biển với phương tiện chủ yếu là thuyền buồm và ghe bầu. Theo sử cũ, các điểm cư ngụ đầu tiên của họ là Mỗi Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai, sau tiến dần xuống Sài Gòn, Mỹ Tho, Hà Tiên. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt tiếp tục di chuyển xuống vùng Long Hồ (Gò Công, Tân An, Bến Tre, Vĩnh Long), Trà Vinh, Ba Thắc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đéc và Châu Đốc.

Đến vùng đất mới, lưu dân Việt thường tập trung cư trú trên 3 miền địa bàn chính:

- Trên các giồng cao ven sông hay trên các cù lao của nhiều con sông thuộc hai trấn Biên Hoà và Phiên An. Đây là những nơi có điều kiện khai phá tương đối thuận lợi.

- Ở vùng ven núi ven rừng để khai thác nguồn lợi rừng núi như săn bắn, khai thác gỗ, khai mỏ và trồng trọt các loại hoa màu. Theo Gia Định thành thông chíthì nhiều nơi như núi Lò Thối, núi Bà Ký, núi Bà Vãi, núi Nứa, núi Ghềnh Rái thuộc trấn Biên Hoà, rừng Quang Hoá thuộc trấn Phiên An là những nơi có người Việt đến ở rất sớm.

- Vùng ven biển, nhất là ở các vũng, các cửa biển, tại đây người Việt sinh sống bằng nghề làm ruộng muối, nghề chài lưới, nghề làm cá mắm. Các địa danh như Vũng Dương, Vũng Cù, Vũng Áo hay cửa Tắc Ký, cửa Cần Giờ, cửa Đông Tranh, đảo Côn Lôn… là nơi người Việt có mặt từ thế kỷ XVII.

Về sau, khi những nơi thuận lợi đã khai phá và trước áp lực dân số ngày căng tăng, người Việt dần dần tiến sâu xuống các vùng trũng thấp sình lầy. Vốn là những nông dân nghèo phiêu bạt, phương tiện thiếu thốn, trình độ kỹ thuật còn hạn chế nên tốc độ khai phá diễn ra khá chậm. Vùng đất mới tuy phì nhiêu màu mỡ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy. Trên địa bàn rộng mênh mông, kênh rạch chằng chịt, người Việt luôn phải đối mặt với bao trở ngại, do đó cho đến thế kỷ XVII các điểm định cư canh tác của người Việt còn thưa thớt và rải rác. Quần cư của người Việt phần lớn nằm trên những giồng đất cao ráo và những dải đất nằm ven theo những sông lạch, nơi có nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Ở nhiều nơi khác, do điều kiện khai phá khó khăn, tình trạng đất đai hoang hoá còn khá phổ biến. Thậm chí đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, vùng thượng lưu sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông) tình trạng “ruộng đất mới khẩn, còn rừng rú”, còn vùng thượng lưu sông Hưng Hoà (Vàm Cỏ Tây) thì “đường nước quanh co, cỏ cây rậm rạp” và “đất đai bùn lầy, đến lúc mưa lụt nước đầy tràn ngập, trên đất liền cũng đi thuyền được”.

Quá trình nhập cư của người Việt gắn liền với việc hình thành những thôn ấp theo mô hình làng xã truyền thống của người nông dân Việt Nam đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ. Trên vùng đất mới với rừng rậm bạt ngàn, hay sình lầy chằm phá mênh mông, lưu dân Việt Nam luôn phải đối mặt với rất nhiều thử thách khắc nghiệt của tự nhiên. Đó là nạn thú dữ, rắn độc, là bệnh tật ốm đau. Để sinh tồn, trụ vững người dân Việt càng phải quần tụ gắn bó, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau trong việc khai hoang vỡ đất, chống chọi với thiên nhiên. Bằng công sức của nhiều thế hệ trong quá trình “chặt phá cây cối, cắt cỏ rậm, biến những bãi sình lầy hoang rậm thành những vùng đất bằng phẳng phì nhiêu”. Có thể khẳng định: Trong công cuộc khai phá miền đất Nam bộ từ đầu thế kỷ XVII trở đi, người Việt chiếm vai trò chủ yếu và quyết định.

Từ sau năm 1698, việc di dân Việt vào miền đất Nam bộ trở thành chủ trương lớn của chính quyền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sử cũ cho biết, sau khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh kinh dinh xứ Đồng Nai; Gia Định đã chiêu tập hơn 4 vạn hộ dân (theo tổ chức gia đình truyền thống người Việt thì ước khoảng 200.000 người) ở các địa phương miền Trung vào sinh cơ lập nghiệp “tổ chức thôn ấp, lập sổ đinh, sổ điền” thì quá trình khẩn hoang sau đó diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn. Địa bàn cư trú cũng như diện tích đất đai canh tác của người Việt được mở rộng thêm rất nhiều.

Từ những thập niên đầu của thế kỷ XVII, bằng một quá trình khai phá lâu dài, người Việt đã bắt đầu xác lập được chủ quyền của mình trên miền đất từng bị bỏ hoang hoá gần 10 thế kỷ và tiếp tục khẳng định và bảo vệ chủ quyền đó trong những thế kỷ tiếp theo.

Chú thích:

1. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, H., 1964.

2. Nguyễn Đình Đầu, Dân cư đồng bằng sông Mê Kông và sông Mê NamChao Phray,in trong Nam bộ xưa & Nay.Nxb Tp HCM, 1998.

3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,Nxb Giáo dục, H., 1998, tr 31.

4. Nguyễn Đình Đầu, sđd.

5. Nguyễn Đình Đầu, sđd.

6. Nguyễn Đình Đầu, sđd.

7. Đại Nam thực lục, T. I, Nxb Giáo dục, H., 2000, tr 72; Phủ biên tạp lụcNxb Khoa học xã hội, H., 1964, tr 51.

8. Trịnh Hoài Đức, sđd, tr 75; Đại Nam thực lục, T. I, Nxb Giáo dục, H., 2000, tr 89; Phủ biên tạp lục, sđd, tr 55.

9. Trịnh Hoài Đức, sđd, tr194.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.