Nam bộ từ sau diệt vong của vương quốc Phù Nam đến cuối thế kỷ XVII
Miền hoang địa gần như vô chủ ấy thực sự được đánh thức khi lớp lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân đến, khoảng đầu thế kỷ XVIII.
Nguồn sử liệu biên niên của nước ta như Gia Định thành thông chícủa Trịnh Hoài Đức, Phủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn, Đại Nam thực lục(Tiền biên); Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chícủa Quốc sử quán triều Nguyễn… cũng như Biên niên sử Khmervà một số tài liệu khác cho biết quá trình khai phá và mở mang miền đất Nam bộ ngày nay của cư dân Việt diễn ra từ rất sớm.
Sự kiện mở đầu cho quá trình xâm nhập của người Việt vào vùng đất Nam bộ được Biên niên sử Khmerchép:
“Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại U Đôn, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một nàng công chúa Việt Nam rất xinh đẹp là con chúa Nguyễn. Hoàng hậu Sam - Đát Việt Nam cho đem nhiều đồng hương tới Campuchia, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ công và có người buôn bán hay vận chuyển hàng hoá” (2).
Hôn lễ giữa vua Chey Chettha II và công chúa Ngọc Vạn (?) diễn ra vào năm 1620. Sau hôn lễ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho gửi quân lính, chiến thuyền và vũ khí giúp Chân Lạp chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm. Đổi lại, vua Chân Lạp cho phép lưu dân người Việt tới lập nghiệp tại một số điểm thưa dân ở phía đông nam vương quốc.
Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu Chey Chettha II cho lập sở thu thuế ở Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé) và cử quan quân đến đóng đồn án ngữ. Nơi chúa Nguyễn đặt sở thuế là Mỗi Xoài, Bà Rịa. Đây là vùng rừng rậm, hoang vắng nhưng cũng là điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ, trên bến dưới thuyền, cảnh tượng mua bán rất sầm uất.
Trong tác phẩm Gia Định thành thông chí,tác giả Trịnh Hoài Đức đã xác định: “Bà Rịa là đầu địa giới trấn Biên Hoà, là đất danh tiếng, cho nên các phủ miền Bắc có câu “Cơm Nai, Rịa cá Rí, Rang”, là vì lấy Đồng Nai - Bà Rịa là đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ ở cả trong đó. Đất ấy lưng dựa núi, mặt nhìn ra biển, rừng rậm che dài, ở trên có Trương tuần để vời gọi những người Man Mạch đến đổi chác, ở dưới có cửa bến để xét hỏi ghe thuyền ra biển; trạm thuỷ, trạm bộ giao tiếp nhau… Có nhiều cửa quan hiểm yếu, có thành trì xưa di chỉ hãy còn, như là quốc đô của vua nào vậy… Khảo sách Tân Đường thưnói: “Nước Bà Lỵ ở thẳng phía đông nam Chiêm Thành, từ cửa biển Giao Châu vượt biển trải qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến. Đất ấy có bãi rộng, nhiều ngựa, cũng gọi tên là Mã Lễ. Tục hay xâm lỗ tai đeo ngọc, dùng một mảnh vải cát bối (vải bông gòn) cuốn ngang lưng. Phía nam có nước Thù Nại, sau đời Vĩnh Huy (tức đời Cao Tông nhà Đường), bị người Chân Lạp thôn tính” (3). Di chỉ của thành trì xưa mà Trịnh Hoài Đức nói phải chăng là kinh đô của nước Bà Lỵ trước khi bị người Chân Lạp thôn tính?
Hôn nhân giữa vua Chey Chettha II và công chúa Ngọc Vạn (?) cùng việc lưu dân người Việt có mặt ở Mỗi Xoài, Bà Rịa cũng được giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christofo Borri (sống tại thị trấn Nước Mặn gần Qui Nhơn từ năm 1618 đến 1622) ghi lại trong hồi ký của mình: “Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập trận và gửi quân sang giúp vua Campuchia - cũng là chàng rể lấy người con gái của chúa. Chúa viện trợ cho nhà vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm”. Christofo Borri cũng mô tả khá chi tiết về phái bộ của chúa Nguyễn đi Campuchia hồi năm 1621: “Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng đứng sau chức Tống trấn. Trước khi lên đường, ông đã để nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ tới kinh U Đôn thì dân chúng Khmer, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh. vì sứ thần đây là người quen thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm đại diện thường trú từ lâu, chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu” (4).
Một giáo sĩ người Pháp là Chevreuil đến thăm Phnom Pênh vào năm 1665 đã thấy “ hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số người được độ 500, mà số theo đạo Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục người” (5).
![]() |
Tượng Phật - Đồng - thế kỷ IV - VI |
Từ nửa sau thế kỷ XVII trở đi, quá trình di dân của người Việt và nhập cư của người Hoa vào vùng đất từ phía nam Bình Thuận trở vào ngày càng đông và trải ra trên một địa bàn rộng lớn. Mỗi bước tiến của cư dân Việt, Hoa (mà chủ yếu là người Việt) trên vùng đất mới đều gắn liền với những sự kiện lịch sử liên quan đến quan hệ giữa các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và quốc vương Chân Lạp ở từng mức độ khác nhau (thân thiện, giúp dỡ, bảo hộ hay đối đầu), tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử đương thời. Biên niên sử nước ta đã ghi chép khá tường tận quá trình người Việt khai phá mở mang miền đất Nam bộ với những sự kiện chính:
- Tháng 9 năm Mậu Tuất (1658), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân xâm lấn bờ cõi. Dinh Trấn biên (tức dinh trấn Thái Khang - Phú Yên) báo lên. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai Yến Vũ hầu (tức Tôn Thất Yến) đem quân tiến đánh bắt được Nặc Ông Chân ở Mỗi Xoài đóng gông đưa về hành tại dinh ở Quảng Bình. Chúa Nguyễn dụ tha tội cho Nặc Ông Chân, vẫn phong cho làm vua nước Cao Miên, cho làm phiên thần nộp cống, không để cho dân Phiên xâm nhiễu. Lúc bấy giờ địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai đã có dân lưu nước ta cùng với người Cao Miên để khai khẩn ruộng đất (7).
- Năm Giáp Dần (1674), chúa Nguyễn Phúc Tần sai Cai đạo Nhan Trang dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm đem quân cứu nước Chân Lạp, đánh bại Nặc Ô Đài, lập Nặc Thu làm vua chính, Đặc Nộn làm vua thứ nhì, cùng coi việc nước, hằng năm triều cống (8). Trong đợt hành binh này Diên Phái và Văn Sùng chết ở trong quân. (Diên Phái sau khi chết có ứng hiện linh thiêng, nhiều người cầu đảo. Người Chân Lạp lập đền thờ ở cửa biển Mỹ Tho).
- Năm Kỷ Mùi (1679), tướng cũ nhà Minh là Long Môn Tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm; Tổng binh Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài) và Phó tướng là Trần An Bình đem hơn 3.000 quân, 50 chiếc thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng xin được làm thuộc hạ. Chúa Nguyễn cùng triều thần bàn bạc thấy họ bị thế cùng bức bách nên không nỡ cự tuyệt. Lại thấy đất Đông Phố đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, triều đình chưa rỗi kinh lý, bèn sức cho họ đến đấy khai khẩn để ở. Dương Ngạn Địch đưa quân đến cửa biển Soi Rạp (Lôi Rạp hay Xoài Rạp) và cửa Đại, cửa Tiểu (đều thuộc Định Tường), đóng ở xứ Mỹ Tho. Trần Thượng Xuyên đem quân đến cửa biển Cần Giờ, đóng ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai, vỡ đất phá hoang, dựng làm phố chợ, buôn bán giao thông với người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và. Đông Phố (hay còn gọi là Cù lao Phố) trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, hưng thịnh trong gần một thế kỷ từ khi Trần Thượng Xuyên mở mang, khai khẩn cho đến năm 1775.
Tác giả Trịnh Hoài Đức mô tả về cảnh buôn bán sầm uất ở Đông Phố như sau: “Phố lớn Nông Nại ở đầu phía tây bãi Đại Phố. Khi mới khai thác Trần Thượng Xuyên tướng quân chiêu tập người lái buôn Trung Quốc lập ra phố xá, nhà ngói tường vôi lầu cao chót vót, quán mấy tầng, rực rỡ bên sông dưới ánh mặt trời, liên tục năm dặm, mở vạch ba đường phố. Phố lớn lát đường đá trắng, phố ngang lát đường đá ong, phố nhỏ lát đường đá xanh, đường bằng như đá mài, khách thương họp đông thuyền biển thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một nơi đại đô hội. Nhà buôn to giàu chỉ ở đây là nhiều” (9).
![]() |
Ấm - Đất nung - thế kỷ IV - VI |
Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu một mốc rất quan trọng trong quá trình khai phá mở mang vùng đất Nam bộ thời các chúa Nguyễn. Mặc dù trước đó gần 8 thập kỷ, lưu dân người Việt đã có mặt ở một số địa bàn nhưng việc khai phá của lớp cư dân đầu tiên này vẫn mang tính tự phát, chủ yếu là lo việc mưu sinh chứ không do chính quyền tổ chức và và quản lý. Đến năm 1698, các chúa Nguyễn chính thức hoạch định miền đất Sài Gòn - Gia Định vào bản đồ của xứ Đàng Trong, xếp đặt các đơn vị hành chính và bộ máy quản lý xuống đến tận thôn xã. Như vậy, từ thời điểm này các chúa Nguyễn đã áp đặt được quyền lực thực tế của mình trong việc quản lý ruộng đất, hộ khẩu và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên cũng như nguồn thu thuế qua việc trao đổi giao thương với các thương nhân các nước trên vùng đất mới mở. Việc nhập cư của người Việt và người Hoa vào miền đất Nam bộ ngày càng có tổ chức và quy mô hơn.
Những người đi tiên phong trong công cuộc khai phá ấy phần lớn là những nông dân nghèo miền Trung không chịu nổi ách áp bức của chế độ đương thưòi, hoặc trốn tránh binh dịch, lao dịch trong cuộc chiến tranh tương tàn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Họ lần lượt tiến vào miền đất mới và cũng là miền đất hứa bằng đường biển với phương tiện chủ yếu là thuyền buồm và ghe bầu. Theo sử cũ, các điểm cư ngụ đầu tiên của họ là Mỗi Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai, sau tiến dần xuống Sài Gòn, Mỹ Tho, Hà Tiên. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt tiếp tục di chuyển xuống vùng Long Hồ (Gò Công, Tân An, Bến Tre, Vĩnh Long), Trà Vinh, Ba Thắc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đéc và Châu Đốc.
Đến vùng đất mới, lưu dân Việt thường tập trung cư trú trên 3 miền địa bàn chính:
- Trên các giồng cao ven sông hay trên các cù lao của nhiều con sông thuộc hai trấn Biên Hoà và Phiên An. Đây là những nơi có điều kiện khai phá tương đối thuận lợi.
- Ở vùng ven núi ven rừng để khai thác nguồn lợi rừng núi như săn bắn, khai thác gỗ, khai mỏ và trồng trọt các loại hoa màu. Theo Gia Định thành thông chíthì nhiều nơi như núi Lò Thối, núi Bà Ký, núi Bà Vãi, núi Nứa, núi Ghềnh Rái thuộc trấn Biên Hoà, rừng Quang Hoá thuộc trấn Phiên An là những nơi có người Việt đến ở rất sớm.
- Vùng ven biển, nhất là ở các vũng, các cửa biển, tại đây người Việt sinh sống bằng nghề làm ruộng muối, nghề chài lưới, nghề làm cá mắm. Các địa danh như Vũng Dương, Vũng Cù, Vũng Áo hay cửa Tắc Ký, cửa Cần Giờ, cửa Đông Tranh, đảo Côn Lôn… là nơi người Việt có mặt từ thế kỷ XVII.
Về sau, khi những nơi thuận lợi đã khai phá và trước áp lực dân số ngày căng tăng, người Việt dần dần tiến sâu xuống các vùng trũng thấp sình lầy. Vốn là những nông dân nghèo phiêu bạt, phương tiện thiếu thốn, trình độ kỹ thuật còn hạn chế nên tốc độ khai phá diễn ra khá chậm. Vùng đất mới tuy phì nhiêu màu mỡ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy. Trên địa bàn rộng mênh mông, kênh rạch chằng chịt, người Việt luôn phải đối mặt với bao trở ngại, do đó cho đến thế kỷ XVII các điểm định cư canh tác của người Việt còn thưa thớt và rải rác. Quần cư của người Việt phần lớn nằm trên những giồng đất cao ráo và những dải đất nằm ven theo những sông lạch, nơi có nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Ở nhiều nơi khác, do điều kiện khai phá khó khăn, tình trạng đất đai hoang hoá còn khá phổ biến. Thậm chí đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, vùng thượng lưu sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông) tình trạng “ruộng đất mới khẩn, còn rừng rú”, còn vùng thượng lưu sông Hưng Hoà (Vàm Cỏ Tây) thì “đường nước quanh co, cỏ cây rậm rạp” và “đất đai bùn lầy, đến lúc mưa lụt nước đầy tràn ngập, trên đất liền cũng đi thuyền được”.
Quá trình nhập cư của người Việt gắn liền với việc hình thành những thôn ấp theo mô hình làng xã truyền thống của người nông dân Việt Nam đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ. Trên vùng đất mới với rừng rậm bạt ngàn, hay sình lầy chằm phá mênh mông, lưu dân Việt Nam luôn phải đối mặt với rất nhiều thử thách khắc nghiệt của tự nhiên. Đó là nạn thú dữ, rắn độc, là bệnh tật ốm đau. Để sinh tồn, trụ vững người dân Việt càng phải quần tụ gắn bó, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau trong việc khai hoang vỡ đất, chống chọi với thiên nhiên. Bằng công sức của nhiều thế hệ trong quá trình “chặt phá cây cối, cắt cỏ rậm, biến những bãi sình lầy hoang rậm thành những vùng đất bằng phẳng phì nhiêu”. Có thể khẳng định: Trong công cuộc khai phá miền đất Nam bộ từ đầu thế kỷ XVII trở đi, người Việt chiếm vai trò chủ yếu và quyết định.
Từ sau năm 1698, việc di dân Việt vào miền đất Nam bộ trở thành chủ trương lớn của chính quyền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sử cũ cho biết, sau khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh kinh dinh xứ Đồng Nai; Gia Định đã chiêu tập hơn 4 vạn hộ dân (theo tổ chức gia đình truyền thống người Việt thì ước khoảng 200.000 người) ở các địa phương miền Trung vào sinh cơ lập nghiệp “tổ chức thôn ấp, lập sổ đinh, sổ điền” thì quá trình khẩn hoang sau đó diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn. Địa bàn cư trú cũng như diện tích đất đai canh tác của người Việt được mở rộng thêm rất nhiều.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ XVII, bằng một quá trình khai phá lâu dài, người Việt đã bắt đầu xác lập được chủ quyền của mình trên miền đất từng bị bỏ hoang hoá gần 10 thế kỷ và tiếp tục khẳng định và bảo vệ chủ quyền đó trong những thế kỷ tiếp theo.
Chú thích:
1. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, H., 1964.
2. Nguyễn Đình Đầu, Dân cư đồng bằng sông Mê Kông và sông Mê NamChao Phray,in trong Nam bộ xưa & Nay.Nxb Tp HCM, 1998.
3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,Nxb Giáo dục, H., 1998, tr 31.
4. Nguyễn Đình Đầu, sđd.
5. Nguyễn Đình Đầu, sđd.
6. Nguyễn Đình Đầu, sđd.
7. Đại Nam thực lục, T. I, Nxb Giáo dục, H., 2000, tr 72; Phủ biên tạp lụcNxb Khoa học xã hội, H., 1964, tr 51.
8. Trịnh Hoài Đức, sđd, tr 75; Đại Nam thực lục, T. I, Nxb Giáo dục, H., 2000, tr 89; Phủ biên tạp lục, sđd, tr 55.
9. Trịnh Hoài Đức, sđd, tr194.