Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại Anh Sơn
1. Đặt vấn đề
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là đối tượng thủy sản được nuôi phổ biến trong các ao hồ nước ngọt, đặc biệt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Các nghiên cứu và thử nghiệm cho thấy, tôm càng xanh phát triển tốt khi được nuôi ghép hoặc luân canh trong ruộng lúa, hình thức nuôi đơn giản và cho giá trị kinh tế cao.
Nghệ An là tỉnh có tiềm năng lớn về diện tích ruộng có khả năng nuôi ghép với các đối tượng thủy sản. Thời gian qua, một số mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa đã được thực hiện trong khuôn khổ chương trình khuyến ngư ở các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên… Tuy nhiên, kết quả còn nhiều hạn chế và không thể nhân rộng. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn giống không đảm bảo chất lượng, người thực hiện chủ yếu là các hộ nông dân không nắm vững các khâu kỹ thuật cơ bản dẫn đến tỷ lệ hao hụt và thất thoát trong quá trình nuôi lớn, năng suất thấp và hiệu quả kinh tế không cao. Vì vậy, việc tiến hành xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa một cách khoa học, có hiệu quả là rất cần thiết nhằm phát triển nghề nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa, làm đa dạng hóa hình thức và đối tượng nuôi trồng thủy sản ở địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cung cấp cho người dân vùng trung du miền núi.
Hướng tới mục đích đó, dự án “Hỗ trợ xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại huyện Anh Sơn, Nghệ An” đã được triển khai thực hiện nhằm các mục tiêu cụ thể: Ứng dụng công nghệ xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa bao gồm các mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm năng suất 300 – 500 kg/ha, mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm năng suất 500 – 1.000kg/ha; Hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở huyện Anh Sơn.
I. Kết quả thực hiện
1. Kết quả đào tạo chuyển giao công nghệ
Trong 2 năm thực hiện dự án, Trung tâm Quốc gia Giống nuôi trồng thủy sản miền Trung thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III (đơn vị chuyển giao công nghệ nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa của dự án) đã đào tạo được 3 cán bộ kỹ thuất và 14 hộ dân tiếp thu và làm chủ các công nghệ: Công nghệ nuôi tôm càng xanh 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm; Công nghệ nuôi tôm càng xanh 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm; Công nghệ phòng và trị bệnh cho tôm càng xanh; Công nghệ xử lý và bảo quản tôm càng xanh sau thu hoạch
2. Kết quả học tập kinh nghiệm
Để giúp bà con nông dân có thêm kinh nghiệm về nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa, đơn vị đã tổ chức đoàn đi học tập kinh nghiệm ở hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Qua đó, người dân đã học tập được kỹ thuật nuôi tôm trong ruộng lúa, kỹ năng phân biệt tôm đực và tôm cái, kinh nghiệm chế biến và bảo quản thức ăn cho tôm.
3. Kết quả xây dựng mô hình
3.1. Kết quả tuyển chọn, vận chuyển giống tôm càng xanh
Giống tôm càng xanh phục vụ dự án được tuyển chọn và mua ở Công ty Thủy sản Phúc Hà ( An Lão – Hải Phòng), giống nhập khẩu từ Trung Quốc ở giai đoạn ấu trùng Nauplius và ương nuôi lên tôm giống cỡ 2 – 3cm. Tôm giống được đóng vào bao nilon bơm oxy, vận chuyển bằng ôtô từ Hải Phòng về đến nơi thực hiện mô hình, tỷ lệ sống đạt trên 95%
3.2.Kết quả theo dõi tốc độ tăng trưởng của tôm càng xanh
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân tôm càng xanh
Ngày nuôi | Năm 2007 | Năm 2008 | ||||||
Mô hình 1 lúa - 1 tôm | Mô hình 2 lúa - 1 tôm | Mô hình 1 lúa - 1 tôm | Mô hình 2 lúa - 1 tôm | |||||
LL (%) | DLG (cm/ngày) | LL (%) | DLG (cm/ngày) | LL (%) | DLG (cm/ngày) | LL (%) | DLG (cm/ngày) | |
40 | 0,22 | 0,14 | 0,21 | 0,11 | 0,22 | 0,14 | 0,21 | 0,11 |
55 | 0,19 | 0,15 | 0,20 | 0,12 | 0,21 | 0,15 | 0,19 | 0,13 |
70 | 0,12 | 0,15 | 0,13 | 0,13 | 0,13 | 0,16 | 0,12 | 0,15 |
85 | 0,06 | 0,17 | 0,06 | 0,14 | 0,06 | 0,17 | 0,06 | 0,12 |
100 | 0,04 | 0,16 | 0,05 | 0,06 | ||||
115 | 0,03 | 0,08 | 0,03 | 0,05 | ||||
130 - TH | 0,02 | 0,04 | 0,02 | 0,02 |
Số liệu ở bảng trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng trung bình chiều dài thân tôm đều tăng nhanh trong 3 tháng nuôi đầu, nhanh nhất là vào ngày 85 -100 ở cả 2 mô hình. Thời gian sau của chu kỳ nuôi, tốc độ tăng trưởng giảm dần, đạt giá trị nhỏ nhất lúc thu hoạch là 0,04cm/ngày ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm và 0,02cm/ngày ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình chiều dài thân tôm khác nhau giữa 2 mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm và mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm trong cùng một thời gian nuôi.
3.3.Kết quả theo dõi tỷ lệ sống
Bảng 2: Tỷ lệ sống của tôm càng xanh trong các ao nuôi
Ngày nuôi | Tỷ lệ sống (%) | ||||||||
40 | 55 | 70 | 85 | 100 | 115 | 130 | TH | ||
Năm 2007 | 2 lúa xen 1 tôm | 89,6 | 85,2 | 78,4 | 67,3 | ||||
1 lúa luân canh 1 tôm | 94,7 | 92,1 | 87,8 | 72,6 | |||||
Năm 2008 | 2 lúa xen 1 tôm | 88,5 | 84,3 | 76,7 | 67,8 | 63,5 | 60,4 | 57,9 | 58,5 |
1 lúa luân canh 1 tôm | 96,7 | 94,7 | 92,1 | 87,8 | 72,6 | 70,1 | 65,3 | 68,5 |
Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống trung bình của tôm càng xanh trong mô hình giảm dần theo thời gian nuôi; tỷ lệ sống trung bình ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm cao hơn mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm trong cùng một đợt kiểm tra.
3.4.Kết quả tổng hợp nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa
Bảng 3: Kết quả tổng hợp nuôi tôm thương phẩm trong ruộng lúa trong
2 năm thực hiện dự án ( 2007 – 2008 )
TT | Chỉ tiêu | ĐVT | 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm | 1 vụ lúa - 1 vụ tôm | ||
Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2007 | Năm 2008 | |||
1 | Diện tích ruộng | m2 | 10.000 | 10.000 | 10.000 | 10.000 |
2 | Mật độ thả | con/m2 | 2 | 2 | 5 | 5 |
3 | Số tôm thả | con | 20.000 | 20.000 | 50.000 | 50.000 |
4 | Số tôm thu hoạch | con | 0 | 11.580 | 0 | 32.9 |
5 | Tỷ lệ sống | % | 67,3 (ở 85 ngày) | 57,9 (ở 130 ngày) | 72,6 (ở 85 ngày) | 65,8 (ở 130 ngày) |
6 | Trọng lượng tôm thu hoạch | kg | 0 | 275,7 | 0 | 822,5 |
Tổng cộng lượng tôm thu hoạch : 275,7 + 822,5 = 1.098,2 kg |
Năm 2007, sau khi nuôi được 85 ngày, tôm sinh trưởng và phát triển tốt nhưng do gặp bão số 5 đã làm thất thoát 100%. Từ số liệu tổng hợp ở 2 mô hình trong năm 2008, bước đầu có thể khẳng định tôm càng xanh có thể nuôi thương phẩm trong ruộng lúa trên địa bàn huyện Anh Sơn và cho hiệu quả kinh tế cao.
4. Hiệu quả kinh tế và xã hội
4.1. Hiệu quả kinh tế
Theo tính toán, ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm, với diện tích 1ha cho thu hoạch 275,7kh tôm và 1.300kg lúa, doanh thu đạt 38.934.000đồng/ha; ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm, với diện tích 1ha cho thu hoạch 822,5kg tôm và 700kg thóc, doanh thu đạt 101.850.000đồng/ha. Trừ chi phí sản xuất ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm cho lãi ròng 3.354.000 đồng và mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm cho lãi ròng 47.460.000 đồng.
4.2. Hiệu quả xã hội
Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa thành công đã mở ra một hướng đi mới cho nghề nuôi trồng thủy sản, góp phần làm giảm việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng tính bền vững trong sản xuất; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế, tạo ra sản phẩm cho xã hội, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân.
III . Kết luận
Việc xây dựng thành công mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở Anh Sơn đã mở ra một hướng đi mới, giúp cho người dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện tiếp cận được với một đối tượng nuôi mới, một phương thức nuôi mới có hiệu quả kinh tế, làm tăng thu nhập trên đơn vị diện tích, khai thác có hiệu quả các chân ruộng trũng trên địa bàn huyện, làm tăng tính bền vững trong sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường do dùng thuốc bảo vệ thực vật.
Để thúc đẩy phong trào nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa phát triển, tạo nguồn thực phẩm có giá trị cung cấp cho thị trường, UBND huyện Anh Sơn và các ngành liên quan cần sớm quy hoạch vùng nuôi tôm càng xanh va có chính sách hỗ trợ sản xuất cho người dân trên địa bàn huyện./.