Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 15/12/2010 18:27 (GMT+7)

Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại Anh Sơn

1. Đặt vấn đề

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là đối tượng thủy sản được nuôi phổ biến trong các ao hồ nước ngọt, đặc biệt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Các nghiên cứu và thử nghiệm cho thấy, tôm càng xanh phát triển tốt khi được nuôi ghép hoặc luân canh trong ruộng lúa, hình thức nuôi đơn giản và cho giá trị kinh tế cao.

Nghệ An là tỉnh có tiềm năng lớn về diện tích ruộng có khả năng nuôi ghép với các đối tượng thủy sản. Thời gian qua, một số mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa đã được thực hiện trong khuôn khổ chương trình khuyến ngư ở các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên… Tuy nhiên, kết quả còn nhiều hạn chế và không thể nhân rộng. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn giống không đảm bảo chất lượng, người thực hiện chủ yếu là các hộ nông dân không nắm vững các khâu kỹ thuật cơ bản dẫn đến tỷ lệ hao hụt và thất thoát trong quá trình nuôi lớn, năng suất thấp và hiệu quả kinh tế không cao. Vì vậy, việc tiến hành xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa một cách khoa học, có hiệu quả là rất cần thiết nhằm phát triển nghề nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa, làm đa dạng hóa hình thức và đối tượng nuôi trồng thủy sản ở địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cung cấp cho người dân vùng trung du miền núi.

Hướng tới mục đích đó, dự án “Hỗ trợ xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại huyện Anh Sơn, Nghệ An” đã được triển khai thực hiện nhằm các mục tiêu cụ thể: Ứng dụng công nghệ xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa bao gồm các mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm năng suất 300 – 500 kg/ha, mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm năng suất 500 – 1.000kg/ha; Hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở huyện Anh Sơn.

I. Kết quả thực hiện

1.     Kết quả đào tạo chuyển giao công nghệ

Trong 2 năm thực hiện dự án, Trung tâm Quốc gia Giống nuôi trồng thủy sản miền Trung thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III (đơn vị chuyển giao công nghệ nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa của dự án) đã đào tạo được 3 cán bộ kỹ thuất và 14 hộ dân tiếp thu và làm chủ các công nghệ: Công nghệ nuôi tôm càng xanh 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm; Công nghệ nuôi tôm càng xanh 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm; Công nghệ phòng và trị bệnh cho tôm càng xanh; Công nghệ xử lý và bảo quản tôm càng xanh sau thu hoạch

2.     Kết quả học tập kinh nghiệm

Để giúp bà con nông dân có thêm kinh nghiệm về nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa, đơn vị đã tổ chức đoàn đi học tập kinh nghiệm ở hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Qua đó, người dân đã học tập được kỹ thuật nuôi tôm trong ruộng lúa, kỹ năng phân biệt tôm đực và tôm cái, kinh nghiệm chế biến và bảo quản thức ăn cho tôm.

3.     Kết quả xây dựng mô hình

3.1. Kết quả tuyển chọn, vận chuyển giống tôm càng xanh

Giống tôm càng xanh phục vụ dự án được tuyển chọn và mua ở Công ty Thủy sản Phúc Hà ( An Lão – Hải Phòng), giống nhập khẩu từ Trung Quốc ở giai đoạn ấu trùng Nauplius và ương nuôi lên tôm giống cỡ 2 – 3cm. Tôm giống được đóng vào bao nilon bơm oxy, vận chuyển bằng ôtô từ Hải Phòng về đến nơi thực hiện mô hình, tỷ lệ sống đạt trên 95%

3.2.Kết quả theo dõi tốc độ tăng trưởng của tôm càng xanh

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân tôm càng xanh

Ngày   nuôi

Năm 2007

Năm 2008

Mô hình 1 lúa - 1   tôm

Mô hình 2 lúa - 1   tôm

Mô hình 1 lúa - 1   tôm

Mô hình 2 lúa - 1    tôm

LL (%)

DLG (cm/ngày)

LL (%)

DLG (cm/ngày)

LL (%)

DLG (cm/ngày)

LL (%)

DLG (cm/ngày)

40

0,22

0,14

0,21

0,11

0,22

0,14

0,21

0,11

55

0,19

0,15

0,20

0,12

0,21

0,15

0,19

0,13

70

0,12

0,15

0,13

0,13

0,13

0,16

0,12

0,15

85

0,06

0,17

0,06

0,14

0,06

0,17

0,06

0,12

100

0,04

0,16

0,05

0,06

115

0,03

0,08

0,03

0,05

130 - TH

0,02

0,04

0,02

0,02

Số liệu ở bảng trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng trung bình chiều dài thân tôm đều tăng nhanh trong 3 tháng nuôi đầu, nhanh nhất là vào ngày 85 -100 ở cả 2 mô hình. Thời gian sau của chu kỳ nuôi, tốc độ tăng trưởng giảm dần, đạt giá trị nhỏ nhất lúc thu hoạch là 0,04cm/ngày ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm và 0,02cm/ngày ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình chiều dài thân tôm khác nhau giữa 2 mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm và mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm trong cùng một thời gian nuôi.

3.3.Kết quả theo dõi tỷ lệ sống

Bảng 2: Tỷ lệ sống của tôm càng xanh trong các ao nuôi

Ngày nuôi

Tỷ lệ sống (%)

40

55

70

85

100

115

130

TH

Năm 2007

2 lúa xen 1 tôm

89,6

85,2

78,4

67,3

1 lúa luân canh 1 tôm

94,7

92,1

87,8

72,6

Năm 2008

2 lúa xen 1 tôm

88,5

84,3

76,7

67,8

63,5

60,4

57,9

58,5

1 lúa luân canh 1 tôm

96,7

94,7

92,1

87,8

72,6

70,1

65,3

68,5

Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống trung bình của tôm càng xanh trong mô hình giảm dần theo thời gian nuôi; tỷ lệ sống trung bình ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm cao hơn mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm trong cùng một đợt kiểm tra.

3.4.Kết quả tổng hợp nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa

Bảng 3: Kết quả tổng hợp nuôi tôm thương phẩm trong ruộng lúa trong

2 năm thực hiện dự án ( 2007 – 2008 )

TT

Chỉ tiêu

ĐVT

2 vụ lúa xen 1 vụ tôm

1 vụ lúa - 1 vụ tôm

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2007

Năm 2008

1

Diện tích ruộng

m2

10.000

10.000

10.000

10.000

2

Mật độ thả

con/m2

2

2

5

5

3

Số tôm thả

con

20.000

20.000

50.000

50.000

4

Số tôm thu hoạch

con

0

11.580

0

32.9

5

Tỷ lệ sống

%

67,3                    (ở 85 ngày)

57,9               (ở 130 ngày)

72,6                       (ở 85 ngày)

65,8                          (ở 130 ngày)

6

Trọng lượng tôm thu hoạch

kg

0

275,7

0

822,5

Tổng cộng lượng tôm thu hoạch : 275,7 + 822,5 = 1.098,2 kg

Năm 2007, sau khi nuôi được 85 ngày, tôm sinh trưởng và phát triển tốt nhưng do gặp bão số 5 đã làm thất thoát 100%. Từ số liệu tổng hợp ở 2 mô hình trong năm 2008, bước đầu có thể khẳng định tôm càng xanh có thể nuôi thương phẩm trong ruộng lúa trên địa bàn huyện Anh Sơn và cho hiệu quả kinh tế cao.

4.     Hiệu quả kinh tế và xã hội

4.1. Hiệu quả kinh tế

Theo tính toán, ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm, với diện tích 1ha cho thu hoạch 275,7kh tôm và 1.300kg lúa, doanh thu đạt 38.934.000đồng/ha; ở mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm, với diện tích 1ha cho thu hoạch 822,5kg tôm và 700kg thóc, doanh thu đạt 101.850.000đồng/ha. Trừ chi phí sản xuất ở mô hình 2 vụ lúa xen 1 vụ tôm cho lãi ròng 3.354.000 đồng và mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm cho lãi ròng 47.460.000 đồng.

4.2. Hiệu quả xã hội

Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa thành công đã mở ra một hướng đi mới cho nghề nuôi trồng thủy sản, góp phần làm giảm việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng tính bền vững trong sản xuất; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế, tạo ra sản phẩm cho xã hội, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân.

III . Kết luận

Việc xây dựng thành công mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở Anh Sơn đã mở ra một hướng đi mới, giúp cho người dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện tiếp cận được với một đối tượng nuôi mới, một phương thức nuôi mới có hiệu quả kinh tế, làm tăng thu nhập trên đơn vị diện tích, khai thác có hiệu quả các chân ruộng trũng trên địa bàn huyện, làm tăng tính bền vững trong sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường do dùng thuốc bảo vệ thực vật.

Để thúc đẩy phong trào nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa phát triển, tạo nguồn thực phẩm có giá trị cung cấp cho thị trường, UBND huyện Anh Sơn và các ngành liên quan cần sớm quy hoạch vùng nuôi tôm càng xanh va có chính sách hỗ trợ sản xuất cho người dân trên địa bàn huyện./.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.
VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.
(Video) Khai mạc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Ba mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN
Nằm trong khuôn khổ chuỗi hội thảo thuộc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng do Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, Hội thảo Thành phố thông minh - Hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống đã xác định được 3 mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN.
Khai mạc phiên toàn thể của Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.