Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 16/10/2024 09:53 (GMT+7)

Mã số mã vạch trong kỷ nguyên mới

“Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”.

Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Tô Lâm

Lời tựa

Nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã có bài viết về Chuyển đổi số - động lực quan trọng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhấn mạnh rằng chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là một cuộc cách mạng nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất và xác lập một phương thức sản xuất mới, hiện đại - "phương thức sản xuất số". Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Nhìn nhận hoạt động chuyển đổi số, gắn với bảo đảm an ninh, an toàn  thông tin trong kỷ nguyên mới theo quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bối cảnh hiện nay, hoạt động mã số mã vạch nói chung và của Hội Mã số Mã vạch nói riêng là một phần không thể thiếu trong quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam.

1. Khái quát về mã số mã vạch

Mã vạch (Barcodes) là những ký kiệu (symbols) có thể quét và nhận dạng được bằng công nghệ Laser hoặc hình ảnh. Chúng được sử dụng để mã hóa thông tin như mã định danh (sản phẩm, lô hàng, địa điểm, v.v.) và các thuộc tính chính (số sê-ri, số lô, ngày, v.v.) theo tiêu chuẩn/cú pháp GS1 (GS1 syntaxes).

Mã vạch đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, cho phép các bên như nhà bán lẻ, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển và theo dõi sản phẩm khi chúng di chuyển qua chuỗi cung ứng hay như trong bệnh viện tự động nhận dạng và theo dõi bệnh nhân…

GS1 sử dụng nhiều loại mã vạch khác nhau để đáp ứng các yêu cầu kinh doanh khác nhau, thường được biết đến dưới 2 dạng thức đó là là Mã vạch tuyến tính hay còn gọi là Mã vạch 1 chiều gồm số và các vạch (đậm, nhạt, dài, ngắn) thành nhóm vạch và định dạng khác nhau (như: EAN/UPC, DataBar, 1D General distribution, EPC/RFID…), dạng thức thứ 2 là Mã vạch hai chiều (2D) (như QR Code, DataMatrix).

2. Vai trò của mã số mã vạch trong chuyển đổi số

  • Tối ưu hóa quy trình sản xuất: Mã số mã vạch giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối thông qua việc tự động hóa việc theo dõi hàng hóa.
  • Tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc: Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến nguồn gốc và chất lượng sản phẩm.
  • Hỗ trợ phân tích dữ liệu: Mã số mã vạch cho phép thu thập dữ liệu một cách nhanh chóng và chính xác, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phân tích xu hướng tiêu dùng và tối ưu hóa chiến lược kinh doanh.

50 năm trước, mã vạch GS1 đã được quét lần đầu tiên và kể từ đó, mỗi tiếng "bíp" giúp việc mua và bán sản phẩm trở nên dễ dàng và an toàn hơn.

Các nhà  bán  lẻ  và  nhà  sản  xuất  đã  hợp  tác  với  tổ chức GS1 toàn  cầu  về  tiêu  chuẩn  dữ  liệu để cùng nhau thay đổi cách chúng ta mua sắm và tạo ra mã vạch. Từ thời điểm đó trở đi, một lần quét đơn giản khi thanh toán đã kết nối một sản phẩm vật lý với các thông số kỹ thuật của nó - và thông tin có thể được chia sẻ trong toàn bộ chuỗi cung ứng và với người tiêu dùng. Trong năm thập kỷ, mỗi tiếng bíp của mã vạch - với các tiêu chuẩn GS1 đằng sau nó - đã tạo nên niềm tin cho mọi người trên khắp thế giới.

Chuyển đổi số đã mở ra những khả năng vô hạn cho doanh nghiệp, con người và hành tinh, Tương lai của chúng ta chưa bao giờ tươi sáng hơn. Mã vạch 2 chiều (phần lớn biết đến là Mã QR Code) do GS1 cung cấp đang biến đổi việc quét đơn giản, mở ra một cổng thông tin sản phẩm chuyên sâu. Từ máy quét trong cửa hàng hoặc thiết bị thông minh,

tm-img-alt
tm-img-alt
tm-img-alt
tm-img-alt

Mã vạch 2 chiều do GS1 cung cấp sẽ tạo ra những cơ hội mới để cải thiện hoạt động kinh doanh, trải nghiệm của người tiêu dùng, sự an toàn và mang tính bền vững.

Ngày nay, hơn bao giờ hết, người tiêu dùng và các cơ quan quản lý đang yêu cầu nhiều thông tin sản phẩm hơn, chẳng hạn như hướng dẫn sử dụng, an toàn, thành phần, dinh dưỡng, chứng nhận, tái chế, v.v. - và nhu cầu liên tục về khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm được cải thiện thông qua chuỗi cung ứng để giảm thiểu rủi ro và cải thiện dịch vụ khách hàng. Tuy nhiên, mã vạch truyền thống đã phục vụ chúng ta rất tốt lại không có khả năng hỗ trợ những nhu cầu trong tương lai này.

Để  đáp  ứng  những  nhu  cầu  mới  này,  ngành  hàng  tiêu  dùng  sẽ  được  phục  vụ  tốt  nhất  bằng  cách  chuyển  sang  Mã  QR  theo  tiêu  chuẩn  GS1,  bởi đơn giản chúng  có  thể  lưu  trữ  lượng  lớn  thông  tin  sản  phẩm  và  dễ  dàng  truy  cập  qua  điện  thoại  thông  minh.  Điều  này  sẽ  mở  ra  một  loạt  các  khả  năng mới,  cung  cấp  tất  cả  thông  tin  mà  người  tiêu  dùng  cần  và  mong  muốn,  cải  thiện  khả  năng  truy  xuất  nguồn  gốc  và  thúc  đẩy  hiệu  quả  thông  qua  chuỗi  cung  ứng,  đồng  thời  còn  cho  phép  quét  khi  thanh  toán.  Để thành công một  lần  nữa các nhà  bán  lẻ  và  nhà  sản  xuất phải  cùng  nhau  áp  dụng  một  cách  tiếp  cận  thống  nhất,  đòi  hỏi  sự  thay  đổi  từ  cả  nhà  bán  lẻ  và  nhà  sản  xuất.  Sự  dịch chuyển đã thực sự bắt  đầu và được thể hiện thông qua dự án mang tên “ Sunrise  2027” với  các  dự  án  thí  điểm  tại  48  quốc  gia  trên  khắp  các  khu  vực  và  chiếm  88%  GDP  thế  giới có thể kể đến một số công ty tên tuổi như: Alibaba (Tập đoàn Taobao & Tmall), Tập đoàn AS Watson, Tập đoàn Barilla, Carrefour, 7- Eleven, Dr. Oetker, IGA, Tập đoàn JD.com (Jingdong), Lidl International, L'Oréal, Master Kong (Tingyi Holding Corp.), Tập đoàn Mengniu, Metro, Migros Ticaret AS, Mondelēz International, Nestlé, The Procter & Gamble Company, Savencia Fromage & Dairy, The JM Smucker Co., Tập đoàn Tsingtao Beer, Tập đoàn WH (Công ty phát triển Henan Shuanghui) và Tập đoàn Yili…

Như vậy có thể thấy các tập đoàn bán lẻ, tập đoàn công nghệ lớn, họ không chỉ thấy được nhu cầu của người tiêu dùng mà họ còn thấy được giá trị, tài sản thực thụ là “Dữ liệu”, là phân tích dữ liệu do đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bên liên quan.

3. Kết nối với quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chỉ ra rằng để thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo, trong đó dữ liệu trở thành tài nguyên quý giá.

Đồng chí đã nhận định và chỉ ra rằng chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - "phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội.

Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới.

Muốn quá trình thực hiện toàn diện, đồng bộ thì người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp các cấp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số; đồng thời đòng chí chỉ ra 4 nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện như:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại.

Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội, đẩy nhanh hiện đại hóa. Có cơ chế, chính sách phù hợp huy động nguồn lực to lớn trong Nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; nguồn lực từ đất đai, tài sản trong xã hội mà người dân đang tích luỹ, biến những tiềm năng này thành động lực, tư liệu sản xuất, để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.

Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi mới.

Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động.

Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức.

Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Trong quá trình cải cách, bám sát nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Việc tinh gọn bộ máy phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao.

Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới.

Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển.

Từ những mục tiêu, nội dung nhiệm vụ trọng tâm rõ ràng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề cập đến nền kinh tế số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức thì Mã số mã vạch chính là một phần của hệ sinh thái dữ liệu kết nối và chia sẻ, đóng vai trò như cầu nối giữa các yếu tố trong chuỗi cung ứng và sản xuất. Bên cạnh đó, đồng chí Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước cũng không quên nhắc nhở chúng ta cùng với việc đẩy mạnh chuyển đổi số cần gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá.

Từ những phân tích đã nêu, quan điểm cá nhân, thiết nghĩ trong hoạt động Mã số Mã vạch cần có những giải pháp đảm bảo An toàn và An ninh Thông tin, cụ thể

(1) Tăng cường Đào tạo và Nâng cao Nhận thức

  • Đào tạo công dân số: Cần trang bị kiến thức và kỹ năng cho người dân để họ có thể tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số. Việc này bao gồm cả việc nhận biết, sử dụng mã số mã vạch trong đời sống thường ngày, trong hoạt động thanh toán và quản lý. Nâng cao ý thức bảo vệ dữ liệu do mình được quản lý.
  • Đào tạo chuyên gia: Chuyên gia trong lĩnh vực mã số mã vạch và chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin cần trang bị kiến thức, phát triển và ứng dụng các công nghệ mới liên quan đến mã số mã vạch cần hài hòa và hợp lý.

(2) Phát triển Hệ thống Pháp lý

  • Xây dựng hành lang pháp lý: Cần có các quy định rõ ràng về việc sử dụng mã số mã vạch nhằm đảm bảo an toàn thông tin và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
  • Quy định về bảo mật dữ liệu: Các doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định về bảo mật thông tin liên quan đến dữ liệu nói chung và dữ liệu mã số mã vạch nói riêng để ngăn chặn các rủi ro an ninh mạng.

(3) Ứng dụng Công nghệ Mới

  • Sử dụng AI và IoT: Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet of Things (IoT) trong việc quản lý và theo dõi hàng hóa qua mã số mã vạch sẽ nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu sai sót.

Cuộc cách mạng chuyển đổi số mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm kêu gọi không chỉ là một xu hướng mà còn là yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển bền vững của đất nước. Việc áp dụng phương thức sản xuất số cùng với giải pháp đảm bảo an toàn thông tin sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động mã số mã vạch, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn, vững vàng trong không gian mới, kỷ nguyên mới. 

tm-img-alt

Xem Thêm

Hoa, cây cảnh mang lại giá trị kinh tế cao cho tỉnh Thái Bình
Theo số liệu của Hội Sinh vật cảnh Việt Nam, cả nước có trên 50.000 ha sản xuất hoa cảnh, cây cảnh. Nhiều tỉnh, thành phố có diện tích trồng hoa, cây cảnh tập trung lớn, gắn với những làng nghề truyền thống lâu đời. Tiềm năng phát triển sinh vật cảnh của cả nước và nhiều địa phương là rất lớn. Nhu cầu sử dụng hoa, cây cảnh ngày càng tăng, bình quân 12 - 15%/năm...
Khẳng định và lan tỏa giá trị của sách khoa học
Nhằm lan tỏa và xây dựng văn hóa, phương pháp đọc sách khoa học, từ đó góp phần khuyến khích phong trào nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển nền khoa học nước nhà và thực hiện nhiệm vụ phổ biến kiến thức - nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức thành viên, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức tổ chức Hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm đọc sách khoa học”
An Giang: Hội nghị tập huấn Cuộc thi lần thứ XIII
Ngày 25/9, tại Thành phố Châu Đốc, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh (Cuộc thi) đã tổ chức hội nghị tập huấn về Cuộc thi lần thứ XIII năm 2024. Đây là đợt tập huấn thứ hai trong chuỗi các hoạt động diễn ra tại nhiều địa phương trên toàn tỉnh. Cuộc thi do Liên hiệp hội tỉnh tổ chức.
Vĩnh Long: Tập huấn “Nghiệp vụ báo chí”
Ngày 20/9, Liên Hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Liên hiệp Hội Bình Phước tổ chức hội nghị tập huấn “Nghiệp vụ báo chí” cho hơn 180 đại biểu làm công tác thông tin.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ tri thức
Ngày 19/9, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Lịch sử vùng đất Nam bộ, quan hệ Việt Nam – Campuchia – Những xu hướng và dự báo trong bối cảnh Campuchia đào kênh Phù Nam – Techo”

Tin mới

Phụ nữ Liên hiệp Hội Việt Nam trong thời kỳ hiện đại
“Phía sau thành công của một người đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ”. Anh em nam giới có được sự thành công trong sự nghiệp, hạnh phúc trong cuộc sống gia đình là nhờ đức tính hy sinh, lòng vị tha của người phụ nữ luôn ở phía sau của họ - người đã làm cho cả thế giới thay đổi và phát triển thế giới tươi đẹp này…”
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Hoa, cây cảnh mang lại giá trị kinh tế cao cho tỉnh Thái Bình
Theo số liệu của Hội Sinh vật cảnh Việt Nam, cả nước có trên 50.000 ha sản xuất hoa cảnh, cây cảnh. Nhiều tỉnh, thành phố có diện tích trồng hoa, cây cảnh tập trung lớn, gắn với những làng nghề truyền thống lâu đời. Tiềm năng phát triển sinh vật cảnh của cả nước và nhiều địa phương là rất lớn. Nhu cầu sử dụng hoa, cây cảnh ngày càng tăng, bình quân 12 - 15%/năm...
Khẳng định và lan tỏa giá trị của sách khoa học
Nhằm lan tỏa và xây dựng văn hóa, phương pháp đọc sách khoa học, từ đó góp phần khuyến khích phong trào nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển nền khoa học nước nhà và thực hiện nhiệm vụ phổ biến kiến thức - nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức thành viên, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức tổ chức Hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm đọc sách khoa học”
Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2018/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ
Ngày 9/10 tại Hà Nội, Liên hiệp Hội Việt Nam đã tổ chức hội thảo nhằm lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học góp ý cho Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
7 giải pháp cấp bách để các tạp chí khoa học thuộc Liên hiệp Hội Việt Nam phát triển
Phát triển mô hình chung cho các tạp chí khoa học thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) một vấn đề phức tạp, cần được nghiên cứu thật kỹ, bởi tính đa dạng của các tạp chí này trong sự phát triển nhanh của báo chí và truyền thông dưới tác động của cộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.