Lược sử vùng đất Nam Bộ (1802 - 1954)
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, khi quan hệ khu vực có nhiều biến động, nhà nước Đại Nam đã thi hành chính sách cương quyết để bảo vệ biên giới tây - nam. Nhà Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống đồn bảo trấn giữ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Lực lượng quân đội được củng cố và tăng cường từ trung ương đến địa phương, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền của lực lượng quân đội được quy định chặt chẽ trong Bộ luật Gia Long hoàn thành năm Gia Long thứ 11 (Nhâm Thân 1812) (1).
Để quản lý chặt chẽ lãnh thổ, triều Nguyễn đã cho lập địa bạ cho toàn lục tỉnh Nam Kỳ (1836); thiết lập củng cố tổ chức hành chính, hoàn chỉnh bộ máy quản lý xã hội từ thôn, xã đến tổng, huyện, phủ, tỉnh. Bên cạnh bộ máy tổ chức hành chính, bên cạnh chùa Phật Tiểu thừa của người Khme, các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng, dân gian của người Việt được hình thành và vận hành: đình thờ Thành Hoàng, am miếu của Đạo Giáo và chùa Phật Đại thừa. Các thiết chế, cơ sở văn hóa và tín ngưỡng dân gian này vừa có tác dụng trấn tĩnh nhân tâm, ổn định xã hội, vừa góp phần vào việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên những vùng đất mới.
Cùng với các biện pháp về chính trị, quân sự, nhà Nguyễn đã có những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế xã hội. Công cuộc dinh điền, xây dựng đồn điền vừa tạo cơ sở kinh tế - xã hội cho quốc gia, vừa củng cố quốc phòng. Việc đào kênh, đắp đường, phát triển giao thông thủy bộ như đào kênh Thoại Hà (1817), kênh Vĩnh Tế (1820 - 1824), kênh Vĩnh An (1843 - 1844), vừa tạo nên những hào lũy nhân tạo kết hợp với những hào lũy tự nhiên để bảo vệ lãnh thổ Nam Bộ.
Hệ thống các chính sách tương đối toàn diện của nhà Nguyễn đã tạo nên sức mạnh và nguồn lực tổng hợp hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Nam Bộ, tạo nên sức mạnh quân sự đánh bại các đội quân xâm lược Nam Bộ vào các năm 1833, 1841, 1847…
Về mặt ngoại giao, đến thế kỷ XIX chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ đã chính thức được các nước láng giềng, trong đó có cả Cao Miên, thừa nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý quốc tế. Tháng 12 năm 1845, ba nước An Nam, Xiêm La (Thái Lan) và Cao Miên ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam kỳ thuộc Việt Nam. Năm 1846 một Hiệp ước ký giữa An Nam và Xiêm La có nhắc lại điều đó và Cao Miên sau đó cũng tham gia vào Hiệp ước này (2). Trong phần mở đầu của Hiệp ước bí mật giữa Xiêm La và Cao Miên, ký ngày 1-12-1863 nêu rõ: “Cao Miên nằm giữa các lãnh thổ Xiêm La, Namkỳ và các vùng đất thuộc Pháp”.Như vậy là chậm nhất đến năm 1845 - 1846, các nước láng giềng với Việt Namđã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam .
Trước sức mạnh xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã từng bước nhượng các tỉnh thuộc vùng đất Nam Bộ cho Pháp. Năm 1862, đại diện của nhà Nguyễn là Phan Thanh Giản và đại diện của Pháp là Đô đốc Bô - Na (Bonard) đã ký Hiệp ước nhường quyền cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam bộ cho Pháp. Tiếp đó, năm 1867, Pháp lại đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam bộ để tới năm 1874, triều đình nhà Nguyễn ký tiếp Hiệp ước nhượng toàn bộ Nam kỳ cho Pháp cai quản.
Về mặt chính trị, hai Hiệp ước 1867 và 1874 được ký dưới sức ép và sự đe doạ bằng vũ lực của quân Pháp, thể hiện sự bất lực của nhà Nguyễn, nhưng về mặt pháp lý, nhất là ý nghĩa pháp lý quốc tế thì hai Hiệp ước này lại là bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ. Pháp không thể ký kết một Hiệp ước chia cắt một phần lãnh thổ của một quốc gia nếu quốc gia kết ước không có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó. Năm 1887, thực dân Pháp đã thành lập Liên bang Đông Dương với hai quy chế khác nhau giữa Campuchia và Namkỳ của Việt Nam . Pháp duy trì chế độ bảo hộ ở Campuchia và thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam kỳ. Để phục vụ mục đích cai trị lâu dài ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp tại Nam kỳ đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam kỳ và Campuchia theo luật pháp của Cộng hòa Pháp trên cơ sở nghiên cứu lịch sử và quá trình thực thi chủ quyền của các triều đại phong kiến của Việt Nam và Vương quốc Campuchia.
Quá trình nghiên cứu, khảo sát, đo đạc và làm việc song phương trên thực địa của các chuyên gia Pháp và Campuchia để xác định biên giới giữa Namkỳ và campuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới, cắm mốc biên giới giữa Nam kỳ và Campuchia. Tất cả các văn bản pháp lý nêu trên đều quy định rõ ràng vùng đất Namkỳ hoàn toàn thuộc Việt Nam . Sau này, toàn quyền Đông Dương chỉ ban hành một số Nghị định về điều chỉnh một số đoạn biên giới nhỏ.
Cùng với việc hoạch định biên giới và phân giới, cắm mốc trên thực địa, sở Địa dư Đông Dương đã in ấn bản đồ thể hiện đầy đủ rõ ràng đường biên giới giữa Nam kỳ và Campuchia. Đến năm 1954, toàn bộ biên giới giữa hai nước Việt nam và Campuchia đã được thể hiện trên 26 mảnh bản đồ tỷ lệ 1/100.000 do sở Địa dư Đông Dương xuất bản. Về cơ bản, đường biên giới giữa Nam kỳ và Campuchia được thể hiện trên các bản đồ này phù hợp với các văn bản pháp lý đã được ký giữa hai nước liên quan đến việc hoạnh định và phân giới, cắm mốc đường biên giới, cũng như so với đường biên giới hiện nay giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.
Khi triều đình nhà Nguyễn buông ngọn cờ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thì nhân dân đã không tiếc xương máu đồng lòng đứng lên đấu tránh chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, bảo vệ đất nước. Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862), có phong trào “tỵ địa” của số đông sĩ phu yêu nước sang Miền Tây, và khi thực dân Pháp chiếm miền Tây Nam Bộ (1867), họ lại “tỵ địa” ra Bình Thuận, nêu cao ý chí “bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Phong trào kháng chiến chống Pháp ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt, dưới nhiều hình thức phong phú như nổi dậy với khẩu hiệu “Dân chúng tự vệ”, hưởng ứng phong trào Cần Vương, các cuộc đấu tranh thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, từ nông dân đến các tín đồ tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
Không chỉ đánh giặc bằng súng đạn, giáo mác, người dân Nam Bộ còn huy động mọi thứ vũ khí để chiến đấu. Tấm gương đánh giặc bằng bút của Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu) đã khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần yêu nước của nhân dân Gia Định. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộcvà văn tế Lục tỉnh sĩ dân trận vongcủa ông và thơ văn yêu nước chống Pháp của nhiều sĩ phu yêu nước khác đã thực sự là những vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ ngoại bang của nhân dân Nam bộ.
Lịch sử đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của nhân dân Nam Bộ đã viết nên những trang sử bằng máu, mãi mãi để lại những tấm gương sáng ngời, tiêu biểu cho ý chí bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình Chiểu…
Bước sang thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc của Việt Namcó những bước chuyển mới, đặc biệt là từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khí thế cách mạng ngày càng sôi sục trong cả nước. Tại Nam kỳ, ngày 23-11-1940, đông đảo các tầng lớp nhân dân đã đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa ở 17 trên 21 tỉnh, thành phố và kéo dài đến 31-12-1940. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ đã tạo ra một cơn bão táp cách mạng làm rung chuyển chuyển không chỉ bộ máy cai trị của thực dân ở Nam kỳ mà còn ảnh hưởng trên phạm vi cả nước. Tuy diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng đây là một cuộc khởi nghĩa rộng lớn và mạnh nhất kể từ khi Pháp xâm lược nước ta. Trong cơn bão táp cách mạng, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng - biểu tượng của tinh thần đoàn kết và lòng quyết tâm giải phóng dân tộc của toàn dân Việt Nam , đã được dâng cao ở nhiều vùng thuộc Mỹ Tho, Vĩnh Long, Gia Định, Bạc Liêu…
Cuộc đấu tranh yêu nước, kiên cường bất khuất của nhân dân cuối cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang trong cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hoà (2-9-1945). Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám trước hết là thắng lợi của tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân và các dân tộc Việt Nam vì mục tiêu độc lập và thống nhất đất nước.
Trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, khối đoàn kết liên tục được củng cố và phát triển. Trong khối đoàn kết dân tộc đó, người Khmer Nam Bộ đã có những đóng góp xứng đáng. Trong những năm 1930 - 1931, các Hội tương tế ái hữu, Nông hội, Cứu tế đỏ… do Đảng tổ chức và lãnh đạo đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó có người Khmer. Các phong trào đòi bỏ sưu, hoãn thuế, giảm tô, vay lúa chia cứu đói cho người nghèo đã đáp ứng nguyện vọng của đông đảo đồng bào Khmer. Trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 có sự góp sức của không ít chiến sĩ người Khmer. Khi khởi nghĩa thất bại, nhiều chiến sĩ người Khmer đã bị chính quyền thực dân tàn sát. Trong quá trình tiến tới cách mạng tháng Tám, chương trình Việt Minh dưới nhiều hình thức, với nội dung ngắn gọn như “Đất nước độc lập”, “Dân tộc bình đẳng”, “người cày có ruộng”, “tự do tín ngưỡng” đã đáp ứng được tâm tư và nguyện vọng của đồng bào Khmer. Trong thành phần Ủy ban Việt Minh các cấp không ít trí thức, sư sãi Khmer được đảm nhiệm những chức vụ quan trọng. Điều này cho thấy, trong cuộc đấu tranh chung chống kể thù xâm lược, ý thức của đồng bào Khmer về vị trí và trách nhiệm của mình trong Quốc gia và Dân tộc Việt nam ngày càng được nâng cao.
Độc lập chưa được bao lâu, nhân nhân ta lại phải chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp, mở màn bằng việc Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Để giữ gìn nền độc lập còn non trẻ, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân cả nước ta, trong đó có nhân dân Nam Bộ, lại một lần nữa đứng lên: “ quyết hy sinh kháng chiến để giữ vững nền độc lập của nước nhà”.
Cuộc kháng chiến của nhân Nam Bộ ngay lập tức đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước. Ngày 26-9-1945, ba ngày sau khi Pháp nổ súng ở Sài Gòn, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi gửi đồng bào Nam Bộkhẳng định quyết tâm kháng chiến của Đảng, Chính phủ và toàn dân Việt Nam. Lời kêu gọi nhấn mạnh: “ Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”.Cùng ngày, chi đội đầu tiên gồm 3 đại đội chiến sĩ tình nguyện của các tỉnh phía Bắc đã lên đường vào Nam cùng nhân dân Nam Bộ kháng chiến, mở đầu cho phong trào Nam tiến đưa hàng vạn thanh niên miền Bắc vào Nam chống xâm lược Pháp.
Về mặt nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho những người đứng đầu các nước Đồng Minh nêu rõ chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với Nam Bộ. Trong các cuộc đàm phán đi đến ký kết Hiệp định sơ bộ 6 - 3 và tạm ước 14-9-1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã không ngừng đòi Pháp trao trả lại Nam kỳ cho Việt Nam. Tháng 7 - 1946, tại Pari, bên lề của Hội nghị Phông-ten-bơ-lô ( Fontainebleau), Hồ Chủ Tịch đã tuyên bố: “ NamBộ là đất Việt Nam . Nó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi […]. Trước khi đảo cooc-sơ (Corse) trở thành đất của Pháp, thì NamBộ đã là đất của Việt Nam ”.Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cả ba miền Bắc, Trung, Nam Việt nam bước vào cuộc kháng chiến thần thánh vì độc lập và thống nhất đất nước.
Trước sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến và để đối phó với dư luận quốc tế, từ cuối năm 1947, Chính phủ Pháp đã dựng lên: “Quốc gia Việt Nam ” (Etat du Vietnam) do Bảo Đại đứng đầu. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp V. Ô-ri-ôn đã ký với Quốc trưởng Bảo Đại Hiệp ước Ê-ly-dê, theo đó Pháp chính thức trả lại Nam kỳ cho Quốc gia Việt Nam và công nhận sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngay sau sự kiện này, một loạt các quốc gia phương Tây, trong đó có Anh và Mỹ đã công nhận Quốc gia Việt Nam . Phù hợp với luật pháp quốc tế, Hiệp ước Ê-ly-dê được coi là văn kiện có giá trị pháp lý cho việc thu hồi lại vùng đất Nam kỳ mà trước đó theo các Hiệp ước 1862 và 1847 triều Nguyễn đã ký nhượng cho Pháp.
Nhằm thực hiện Hiệp ước Ê-ly-dê, ngày 9-3-1949, Đại hội đồng khối liên hiệp Pháp đã thảo luận về dự luật đưa Nam kỳ - một “lãnh thổ hải ngoại của Pháp” trả lại cho “Quốc gia Việt Nam”. Tại hội nghị này, chính quyền Campuchia tìm cách vận động chính phủ Pháp giúp thực hiện yêu sách lãnh thổ đối với vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.Tuy nhiên, yêu cầu này của phía Campuchia đã không được phía Pháp chấp thuận. Ngày 4-6-1949, Pháp đã thông qua luật 49-733 kết thúc tiến trình trao trả Nam kỳ cho Việt nam, vĩnh viễn chấm dứt Quy chế “lãnh thổ hải ngoại của Pháp đối với vùng lãnh thổ này.
Về yêu sách của chính quyền Campuchia đối với vùng đất Nam Bộ, ngày 8-6-1949, Chính phủ Pháp đã gửi một bức thư cho Quốc Vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, trong đó nêu rõ:
“Ngoài những lý do thực tiễn, những lý do về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam kỳ. Quốc Vương hẳn cũng biết rằng Namkỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước 1862 và 1874… Chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam…Về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam kỳ… Lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới. Giữa những ví dụ khác, xin phép nhắc lại rằng Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến”.
Với bức thư nêu trên, Pháp không chỉ thừa nhận một thực tế lịch sử chứng tỏ người chủ thực sự của vùng đất Nam Bộ là nhà nước Việt Nam, mà còn nêu lại một lần nữa cơ sở pháp lý khẳng định vùng đất Nam Bộ đã thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trước khi Pháp đặt chân đến nam kỳ.