Lễ hội cúng trăng của người Tày
Hội bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng 3. Từ xa xưa đến nay, thời gian tổ chức lễ hội cúng trăng đã được định ở từng xóm như: bản Giống đón trăn vào 6-2 và đưa tiễn trăng ngày 22-3; bản Nưa Khau đón ngày 11-2, tiễn trăng ngày 22-3; bản Ngườm Cuông đón trăng ngày 15-2 và tiễn trăng ngày 21-3…
Để tổ chức lễ hội, các cụ già trong bản chọn một bà mẹ có cuộc sống gia đình hoàn thiện, hát giỏi để đóng vai Mẹ Trăng (Mụ Cốc) và chọn 12-18 cô gái trẻ đóng vai các nàng tiên. Trong các cô này chọn ra 2 người chưa chồng đóng chị em trăng. Cô chị gọi là “ Nàng Slở”, cô em gọi là “ Nàng Gường”. Mẹ Trăng mặc quần áo chàm, đầu buộc dải vải đỏ vắt chéo trên khăn. Khi hành lễ, đến đoạn múa lên đường, Mẹ Trăng tay cầm ngọn mía, trên có treo túi đựng trầu nhỏ, một chiếc khăn và một bát nước có đặt chiếc lá bưởi. Bát nước và ngọn mía tượng trưng cho việc tẩy uế. Nàng Slở mặc áo vàng, đầu quấn khăn có buộc dải vải màu vàng chéo trên khăn. Nàng Gường mặc áo đỏ, trên đầu buộc dải vải màu đỏ. Theo sau Trăng chị, Trăng em là 6-8 cô mặc áo chàm, đầu cũng buộc dải vải màu đỏ hoặc màu vàng. Các cô này được gọi là các “ Mụ Nàng” đi phục vụ cho 2 nàng trăng. Ngoài ra còn có 2 thiếu niên nam mang lễ đi trước mở đường cho cuộc hành trình đưa các nàng tiên và Mẹ Trăng lên trời. Hai thiếu niên này mặc áo chàm, trên đầu buộc 2 dải vải đỏ, ngang hông buộc thắt lưng cũng bằng vải đỏ. Khi Mẹ Trăng và các nàng tiên thực hiện cuộc hành trình thì 2 thiếu niên tay cầm một cây trúc nhỏ, tỉa cành, chỉ để lại mấy cành ở ngọn, trên ngọn buộc một chiếc khăn tay. Hai cây trúc là 2 cây “cự tiến”, có ý nghĩa mở đường cho Mẹ Trăng và các nàng tiên trên trời. Trong lễ hội còn có ông Tào làm lễ cúng các thần để lễ hội diễn ra và kết thúc an toàn.
Khi đã chuẩn bị xong mọi thứ, dân làng dựng một cái liều ở nơi khô ráo trong bản, gọi là Lều trăng ( Thiêng hai). Lều dựng sơ sài, lợp rơm, trong lều kê mấy tấm phản làm chỗ ngồi cho Mẹ Trăng và các nàng tiên khi làm lễ. Trước lều, các cô gái trong bản treo từng bó các loại hoa như hoa bi oóc mạ, hoa khảo quang, hoa guột, hoa chuối… lấy từ rừng về.
Trước khi hành lễ, người đóng vai Mẹ Trăng, và các nàng tiên đứng trước bàn lễ để ông Tào làm lễ hoá thân. Theo trình tự, mỗi người hít thở 3 lần khói hương để tống khứ linh hồn người ra và linh hồn Mẹ Trăng cùng các nàng tiên nhập vào. Sau lễ nhập hồn, tiến hành lễ đón trăng xuống trần gian.
Sau lễ đón trăng, các đêm tiếp theo là làm lễ cúng các mẹ trăng, diễn ra trong 12 đêm, mỗi đêm cúng mời một mẹ trăng xuống giúp trần gian làm ăn. Lễ cúng miêu tả cuộc hành trình của các nàng lên trời, đến các cửa của các mẹ trăng như: mẹ Lạn Ba, mẹ Mạ Mì… Theo tín ngưỡng dân gian Tày thì mỗi mẹ trăng trông coi một công việc: mẹ Khắc Cơ bảo quản giống lúa, mẹ Bích Lam trông coi giống bông, mẹ Lưỡng Tàm bảo quản giống tằm, mẹ Mạ Mì trông coi các loài sâu bọ… Các đêm cúng đều hát những bài hát riêng, ví dụ:
Hôm nay mụ Khoá lấy hoa đến cầu mùa
Cầu vụ này tốt hơn vụ cũ
….
Lạy mẹ, cho con giống lúa già năm ngoái
Mẹ cho con giống rau trồng vườn
Lạy mẹ, nhốt sâu bọ vào ống
Lạy mẹ, cho con giống tôm, cá
Tháng 4, tháng 5 mẹ hãy cho mưa…
Khi đã cầu xong, xin các mẹ đầy đủ giống cây, con điều kiện mưa gió thuận lợi cho việc trồng trọt, làm ăn ở trần gian…, dân bản lại tổ chức đưa tiễn Mẹ Trăng và các nàng tiên về trời.
Dân bản lại dựng một lều trăng thứ 2 ở ngoài đồng. Trước khi hành lễ đưa tiễn ở ngoài đồng, Mẹ Trăng và các nàng tiên phải làm lễ chia tay trong lều đón trăng ở trong bản. Họ hát các bài hát chia tay và vừa đi vừa dùng tay, du mạnh những cột lều cho đổ, gọi là lễ “Trụ trại”. Sau lễ Trụ trại, Mẹ Trăng và các nàng tiên ra cầu thần trông coi đầu bản, cuối bản mở cửa để họ về trời.
“Lều trăng” ở đồng cũng dựng sơ sài như lều trăng trong bản, trước lều có đặt các mâm cỗ, trong đó có 3 mâm to, một mâm có thủ lợn, xôi, rượu, hai mâm có gà, xôi, các mâm khác chỉ có xôi ngũ sắc. Bên cạnh các mâm đặt những chiếc thuyền đẽo bằng gỗ, trong đó có một chiếc thuyền to, trang trí đẹp hơn. Những chiếc thuyền này tượng trưng chở của cải, hoa trái ở dưới dương gian lên tiến cho các mẹ trăng.
Trước cửa lều trăng là những hàng cọc dựng thành khung, mỗi khung cách nhau chừng 2m, trên trải những tấm vải gai tạo thành một đường vòng quanh sân. Những khung lợp vải này gọi là “Trại mùng mành”. Khi hành lễ, đoàn Mẹ Trăng và các nàng tiên đi dưới những tấm vải lợp này. Trước lều trăng cũng có treo những sào hoa rừng do các nàng tiên đi theo các nàng trăng khiêng từ lều đón trăng trong bản ra. Trước lều đặt một mâm hương có 3 bát gạo, một bát có quả trứng gà, một bát có cắm 3 con én gấp bằng giấy, 3 bát đựng rượu và một số giống hoa màu. Khi làm xong lễ đưa tiễn, múa, đưa của cải lên thuyền cho Mẹ Trăng và các nàng tiên về trời thì các nàng tiên phụ khiêng 2 sào hoa và một người già cầm chiếc thuyền to nhất đi đến bên suối, họ đặt hoa trên bờ và thả thuyền xuống nước. Sau khi thả thuyền, thầy Tào làm phép tách vía cho Mẹ Trăng và các nàng tiên đi dưới những tấm vải lợp này. Trước lều trăng cũng có treo những sào hoa rừng do các nàng tiên đi theo các nàng trăng khiêng từ lều đón trăng trong bản ra. Trước lều đặt một mâm hương có 3 bát gạo, một bát có quả trứng gà, một bát có cắm 3 con én gấp bằng giấy, 3 bát đựng rượu và một số giống hoa màu. Khi làm xong lễ đưa tiễn, múa, đưa của cải lên thuyền cho Mẹ Trăng và các nàng tiên về trời thì các nàng tiên phụ khiêng 2 sào hoa và một người già cầm chiếc thuyền to nhất đi đến bên suối, họ đặt hoa trên bờ và thả thuyền xuống nước. Sau khi thả thuyền, thầy tào làm phép tách vía cho Mẹ Trăng và các nàng tiên, gọi hồn người ở trên trần gian nhập vào. Mọi người phải rũ bỏ khăn vấn trên đầu và ra khỏi chỗ làm lễ tách - nhập hồn.
Lễ hội cúng trăng của người Tày tuy mới được khôi phục nhưng đã có sức cuốn hút nhiều người, nhiều lứa tuổi tham gia. Sự độc đáo của lễ hội là vừa thể hiện tín ngưỡng dân gian vừa phản ánh nguyện vọng của người Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 77, 4/2005, tr 16, 22








