Lao ruột
Đáp: lao ruột là tình trạng tổn thương đặc hiệu của ruột do vi khuẩn lao gây nên, bệnh thường xuất hiện thứ phát sau ổ lao khác. Bệnh có thể gặp ở cả hai giới với tỷ lệ ngang nhau ở mọi lứa tuổi. Mặc dù đã giảm nhiều so với trước đây, nhưng hiện nay lao ống tiêu hóa lại có chiều hướng gia tăng trở lại, nhất là ở các nước phát triển, ở những người nhập cư, và ở những người nhiễm bệnh HIV. Biểu hiện bệnh đa dạng, điều trị nói chung còn hiệu quả như lao phổi, tuy nhiên, gần đây đã xuất hiện sự kháng thuốc.
Lao ở ruột là vị trí thường gặp thứ hai sau lao phúc mạc trong lao ống tiêu hóa, chủ yếu là lao thứ phát sau lao ở các cơ quan khác. Có nhiều đường lây nhiễm vi khuẩn lao vào ruột trong đó chủ yếu là theo đường tiêu hóa (do nuốt phải đờm, dãi, chất nhày của người nhiễm vi khuẩn lao hoặc uống sữa bò bị nhiễm vi khuẩn lao), nguyên nhân ít gặp hơn là lây nhiễm theo đường máu, đường bạch huyết, đường mật, hoặc đường tiếp giáp.
Vùng hồi manh tràng là vị trí thường gặp nhất trong lao ruột do vùng này thường xuyên bị ứ trệ, đồng thời đó là nơi trao đổi nhiều nhất về nước và điện giải làm cho phần này có sự hấp thu rất mạnh và do đó ở vùng này cũng xuất hiện nhiều tế bào lympho nhất.
Vị trí thức hai thường gặp là hỗng hồi tràng (khoảng 35%), tổn thương ở đại tràng ít gặp hơn (khoảng 12%), những vị trí khác thường là hiếm gặp hoặc hãn hữu gặp như trực tràng, hậu môn, ruột thừa…
Trong thời kỳ khởi phátcác biểu hiện chủ yếu là gầy sút nhanh, xanh xao, mệt mỏi, sốt và phân lỏng ngày 2 – 3 lần, phân sền sệt, thối; đi lỏng kéo dài, dùng các thuốc cầm không có tác dụng; có thể xen kẽ tiêu phân lỏng với táo bón, có khi khỏi vài ngày lại tái phát; đau bụng: đau bụng âm ỉ, không có vị trí cố định, khi đau bụng thường mót đi ngoài, đi ngoài đuợc thì dịu đau và thường có sôi bụng kèm theo.
Trong thời kỳ toàn phát, biểu hiện triệu chứng khác nhau tùy theo thể bệnh:
Thể loét tiểu tràng, đại tràng: Bệnh nhân đau bụng nhiều; sốt cao, đi lỏng kéo dài. Bụng hơi to, có nhiều hơi, sờ bụng không thấy gì đặc biệt. Phân loãng, mùi hôi thối, màu vàng, có lẫn mủ, nhầy và ít máu. Suy kiệt nhanh, xanh xao, biếng ăn. Có bệnh nhân sợ ăn vì ăn vào thì lại đau bụng, đi lỏng.
Thể to – hồi manh tràng: Bệnh phân hết đi lỏng lại táo, phân lẫn máu nhầy mủ, không bao giờ phân bình thường. Nôn mửa và đau bụng. Khám hố hậu phải thấy u mềm, ấn đau di động ít.
Thể hẹp ruột: sau khi ăn thấy bụng căng lên, đồng thời ở bụng nổi lên các u cục và có dấu hiệu rắn bò. Sau khoảng 10 – 15 phút nghe có tiếng hơi di động trong ruột và cảm giác hơi đi qua chỗ hẹp. Khám bụng ngoài cơn đau không thấy dấu hiệu gì.
Khi có các biểu hiện trên, bạn sẽ được bác sĩ chỉ định làm nhiều xét nghiệm để chẩn đoán, trong đó đáng chú ý nhất đó là làm phản ứng mantoux và nôi soi đại tràng bằng ống mềm kết hợp với sinh thiết sẽ phát hiện ra các tổn thương đặc hiệu.
Hiện nay, chủ yếu là điều trị nội khoa, theo phác đồ điều trị lao được áp dụng chung hiện nay. Việc sử dụng phối hợp thuốc như thế nào là tùy vào thể bệnh và giai đoạn của bệnh, nhất thiết phải có ý kiến của bác sĩ, bạn không nên tự ý dùng thuốc. Ngoài chế độ dùng thuốc cần kết hợp chế độ ăn giàu đạm và sinh tố, kết hợp các thuốc điều trị triệu chứng. Chỉ đặt vấn đề điều trị ngoại khoa khi có biến chứng thủng ruột hoặc tắc ruột.








