Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 22/02/2008 15:13 (GMT+7)

Kỹ thuật nuôi ba ba lớn nhanh: Làm ao

Nguồn nước và chất nước:

Có nguồn nước cấp bảo đảm đủ nước nuôi quanh năm, có thể chủ động tháo nước và thay nước khi cần. Ao có nguồn nước cấp dồi dào, có điều kiện thay nước luôn có thể áp dụng kỹ thuật nuôi thả mật độ dày, cho ăn thoã mãn để đạt tốc độ lớn và năng suất cao. Điều kiện cấp nước không chủ động, thay nước khó khăn chỉ nuôi được mật độ thưa, năng suất thấp hoặc vừa phải.

Trong mùa nắng nóng, trong trường hợp nắng kéo dài, ao nuôi ba ba vẫn giữ được mức nước nuôi ở độ sâu thích hợp. Thuận tiện nhất là sử dụng nguồn nước tự chảy, nguồn nước từ sông, suối, kênh, mương, đầm hồ lớn.

Nguồn nước cấp cần sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải hoặc thuốc trừ sâu, pH từ 6,5 - 8, hàm lượng oxy cao 4mg/l trở lên. Nơi không có điều kiện phân tích nước, có thể lấy nước sinh hoạt tắm giặt bình thường để làm tiêu chuẩn. Đối với vùng gần biển, nơi có ảnh hưởng của thuỷ triều và nước lợ, độ mặn của nguồn nước cấp cho ao nuôi ba ba không quá 3-4%o.

Xây dựng ao nuôi

- Nên xây dựng ao nuôi ở nơi yên tĩnh, kín đáo, không bị cớm rợp, dễ thoát nước, không bị úng ngập, có nguồn nước cấp độc lập để bảo đảm cấp nước sạch

- Diện tích ao nuôi ba ba bố mẹ từ 100 - 200 m 2/ao, lớn nhất không nên quá 400 m 2. Ao nuôi ba ba thịt từ 100 - 200 m 2/ao, lớn nhất không quá 1.000 m 2. Bể ương ba ba giống từ mới nở đến 1 tháng tuổi: 1-10m 2/bể. Nên xây nhiều bể nhỏ ương riêng rẽ ba ba nở cùng thời gian 1-2 ngày vào 1 bể. Ao, bể ương ba ba giống từ 2-3 tháng tuổi: 10-50m 2.Ao, bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi) từ 50-150m 2

- Độ sâu thích hợp

Ao nuôi ba ba bố mẹ 1,5 - 2 m, có mức nước chứa thường xuyên từ 1,2 - 1,5 m, thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20 - 30 cm. Ao nuôi ba ba thịt từ 1,5 - 2 m, có mức nước chứa thường xuyên 1 - 1,2m. Thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20 - 30 cm.

Đáy ao nuôi ba ba thịt và ba ba bố mẹ tốt nhất vừa có chỗ nông vừa có chỗ sâu, để thích hợp với điều kiện tự nhiên của ba ba.

Bể ương ba ba mới nở: từ 0,5-0,6m, chứa nước sâu từ 10cm (lúc đầu) đến 40cm (cuối giai đoạn ương). Bể ương ba ba giống cỡ 2-3 tháng tuổi từ 0,7-1m, chứa nước sâu từ 0,4-0,6m.

Bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi): từ 0,8-1,2m, chứa nước sâu 0,60,8m. Ao ương sâu từ 11,5m, chứa nước sâu 0,81m.

Ao quá rộng và quá sâu không thuận lợi cho công tác quản lý trong quá trình nuôi.

-Mỗi ao có cống cấp nước và thoát nước riêng

-Có chỗ cho ba ba nghĩ ngơi dưới nước và trên bờ.

Ba ba ăn no xong thường tìm chỗ nghĩ ngơi thích hợp, rất hay vùi mình xuống bùn, chỉ để hở trên bùn 2 lỗ mũi để thở. Khi yên tĩnh, nhất là vào các buổi nắng ấm, ba ba còn hay bò lên bờ hoặc trèo lên vật nổi trên mặt ao để phơi nắng (có nơi gọi là phơi lưng, tắm nắng...) cho đến khi mặt da khô hết nước dính mới xuống nước trở lại. Ba ba phơi nắng như vậy có tác dụng rất tốt, có thể tự chữa khỏi các bệnh nấm nước, bệnh lỡ loét khi vết thương còn nhẹ.

Cách tạo chỗ cho ba ba rúc nằm dưới đáy ao:

Vét hết bùn bẩn trong ao, để đáy trơ, sau đó đổ lớp cát non (cát mịn sạch) hoặc cát pha bùn sạch lên trên, diện tích rải cát bùn từ 20-100% diện tích đáy ao, bể, tuỳ mật độ nuôi dày hay thưa; chiều dày lớp cát bùn từ 4-15cm tuỳ theo cỡ ba ba lớn nhỏ, bể ương ba ba mới nở chỉ cần lớp cát dày 3-4cm, ao nuôi ba ba bố mẹ hoặc ba ba thịt đã lớn lớp cát cần dày 10-15cm, đủ cho ba ba vùi kín mình 3-5cm. Không nên dùng cát thô (cát già), cát bẩn có lẫn nhiều mảnh cứng sắc cạnh.

Có nhiều cách tạo chỗ cho ba ba bò lên phơi nắng: Đơn giản nhất là thả một số vật nổi như bó tre, nứa (cả cây), cây gỗ, tấm gỗ, tấm phên...

-Có chỗ cố định cho ba ba ăn để dễ theo dõi sức ăn của ba ba và để làm vệ sinh khu vực ăn. Đơn giản nhất là cho thức ăn vào rổ, rá, nia, mẹt, khay, buộc dây treo ngập nước từ 0,3-0,6m cho ba ba ăn, khi cần thì nhấc lên như nhấc vó. Có thể xây một bệ máng ở một góc ao, rộng 0,4 - 0,6m, ngập dưới nước 0,3-0,6m.

- Chỗ ba ba hay bò leo như đáy bể, sườn ao, bể, các tường xây nên xây phẳng, có điều kiện nên trát vữa nhẵn để ba ba khó leo và không bị xướt da bụng dẫn đến nhiễm trùng sinh bệnh.

Chống ba ba vượt ao ra ngoài đi mất:

Cửa cống tháo nước và cấp nước cần bịt bằng lướt sắt.

Ao nuôi ba ba thịt không nhất thiết phải xây bờ từ đáy lên như ao nuôi ba ba bố mẹ, nhưng cần xây tường hoặc rào chắn xung quanh. Ao nuôi trong vườn, có thể dựa vào tường xây bảo vệ chung cả khu vườn. Các ao đất rộng có thể dùng tấm tôn, tấm nhựa rào chắn xung quanh

Tạochỗ thích hợp cho ba ba đẻ trứng:

Ao chuyên nuôi ba ba bố mẹ sinh sản cần xây “nhà đẻ" hoặc “phòng đẻ” cho ba ba ở rìa ao để ba ba tập trung đẻ nhanh, không mất trứng, giảm tỷ lệ trứng hư hỏng. Nhà đẻ xây ở một phía bờ ao, có cửa thông với ao rộng 0,5-0,6m có lối dốc thoai thoải cho ba ba bò lên. Diện tích nhà đẻ từ 2-6m 2, mỗi m2 cho 15-20 con vào đẻ. Nền nhà đẻ cao hơn mực nước ao 0,4-0,5m để không bị ngập nước. Dùng gạch xây xung quanh, trong đổ cát sạch , ẩm (nên dùng cát mịn, để cát ướt nhão hoặc khô rời, ba ba không đẻ), lớp cát dày 20-25cm để ba ba bới tổ đẻ trứng. Nhà đẻ cần lợp mái che mưa nắng, tạo yên tĩnh cho ba ba vào đẻ.

Nguồn: Kinh tế VAC, số 21, 10 - 11 - 2007, tr 22

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.