... không thể áp đặt một khuôn mẫu nào cho phụ nữ
Tôi nghĩ ở vị trí hiện nay là hiệu trưởng của trường Đại học Hoa Sen, Tiến sĩ Phượng là một trong rất ít hiệu trưởng đại học Việt Nam là nữ, người thể hiện rõ ý thức bình đẳng giới trong quan điểm giáo dục; đồng thời, là một trong rất ít sử gia Việt Nam là nữ, bà đã mang quan điểm nữ quyền tiên phong nghiên cứu lịch sử phụ nữ Việt Nam, với thành tựu là luận án tiến sĩ “Việt Nam 1918-1945, giới và hiện đại: sự xuất hiện những nhận thức và trải nghiệm mới” được đánh giá có “tính độc sáng và khai phá trong thực hiện nghiên cứu”, đặt một nền tảng quan trọng cho các ngành học thuật tương lai liên quan đến phụ nữ Việt Nam.
Bản luận án gây được chú ý trong cộng đồng nghiên cứu về Việt Nam hoặc về giới ở trên thế giới, cả trong những người nói viết tiếng Anh, mặc dù luận văn được viết bằng tiếng Pháp. Nhưng cuộc trò chuyện bắt đầu từ con đường đưa một cô gái nhút nhát trở thành một nữ trí thức.
PV: Thưa Tiến sĩ Bùi Trân Phượng, quá trình học tập của bà có điều gì đặc biệt?
Tiến sĩ Bùi Trân Phượng (TS. BTP):Hồi nhỏ tôi học giỏi, được coi là giỏi đặc biệt. Tôi học sớm 1 tuổi, nhưng không phải cố gắng gì nhiều, tôi vui thích trong việc học, chớ không thấy đứng nhất lớp là quan trọng. Hồi đó, thầy cô và phụ huynh theo xưa, nên không hay khen con trẻ trước mặt, sợ nó hư; học trò không đi học thêm, sức học như thế nào thì thể hiện và được nhìn nhận như thế đó. Việc học của tôi thuận lợi chủ yếu vì tôi thích học. Chuyển từ tiểu học Việt qua trung học Pháp, rồi từ Việt Nam đi du học ở Pháp, mỗi lần thay đổi, tôi có gặp khó khăn, nhưng đều tự lực vượt qua khá dễ dàng, rồi lại có thành tích đặc biệt xuất sắc, nhiều lần như vậy.
Bà bắt đầu đi học sớm hơn tuổi qui định, lấy bằng tiến sĩ ở tuổi quá năm mươi, việc học diễn ra gần suốt cả đời, có gập ghềnh, có gián đoạn chăng? Vì sao?
TS. BTP:Suốt những năm học trung học Pháp ở Việt Nam rồi đại học ở Pháp tôi đều được học bổng. Cha tôi là nhà giáo, gia đình không thuộc loại giàu có. Việc học của tôi suôn sẻ và thành công cho tới năm 22 tuổi, khi tôi tốt nghiệp cử nhân giáo khoa lịch sử (hồi đó bằng cử nhân giáo khoa có nhiều ràng buộc hơn và “danh giá” hơn bằng cử nhân thường). Tôi quyết định bỏ học về tham gia hoạt động nội thành; công tác trong ban Trí vận, nên vẫn đồng thời làm công việc chuyên môn là đi dạy học ở trường Marie Curie và thỉnh giảng ở Đại học Cần Thơ. Sau tháng 4 năm 1975, tôi về Khoa Sử Đại học Sư phạm TP. HCM. Theo thói quen, tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử. Nghiên cứu là do sở thích, không vì bằng cấp hay sự thăng tiến nghề nghiệp nào.
Nhưng sự học của tôi gặp “trắc trở” hay rẽ sang bước ngoặt khác, đều là do “tánh tình” của tôi. Do những quyết định “không giống ai” của tôi. Cũng có khi thầy cô, bạn bè tiếc cho tôi, hay tìm cách ngăn cản. Nhưng rất thành thật mà nói, tôi cảm thấy mình không làm khác được. Người ngoài nhìn thì thấy như là “ma đưa lối, quỷ dẫn đường/lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Nhưng mỗi lần, tôi đều có cái gì đó thôi thúc bên trong, nên rất lâu về sau, nhìn lại quyết định mà người ta coi là “kỳ cục” của mình, tôi không thấy ân hận, mà chỉ thấy hơi mắc cười cho mình; cảm giác hơi giống như “tái ông thất mã” vậy.
Chẳng hạn, trong thời gian làm luận án tiến sĩ lịch sử ở một trường đại học Pháp (là chuyên môn gốc mà tôi say mê và tự tin mình không có khó khăn gì để hoàn thành tốt); tôi tạm ngưng một thời gian để đi học MBA bằng tiếng Anh, vào học chung với những người chẳng những thuộc chuyên ngành kinh tế, quản trị, mà còn có kinh nghiệm thực tế kinh doanh, lại thành thạo tiếng Anh trong khi tôi vốn quen dùng tiếng Pháp.
Kiến thức về quản trị, kinh doanh, và thông thạo cả Anh, Pháp ngữ hẳn nhiên có ích cho công việc của bà hiện nay là quản lý một trường đại học tư. Là phụ nữ có ảnh hưởng đến việc học hành , công tác của bà không?
TS. BTP:Hồi tôi còn học tiểu học, má tôi nói: “Sanh con ra, thấy là con gái, thì má biết con khổ rồi”. Tôi cười khì không hiểu; vì tôi thấy mình vẫn được đi học, học giỏi, thầy cô thương, đâu có khổ cái gì đâu. Khi tôi hiểu được lời má nói, thì má tôi đã không còn. Tôi chỉ bị ràng buộc (do giới tính) kể từ khi lấy chồng, có con. Kể ra thì cũng đã hưởng “tự do” khá lâu rồi, vì tôi lập gia đình và có con rất trễ. Nhưng tôi tiếp tục học lên cao còn trễ hơn. Do những sự thay đổi trong hệ thống giáo dục Pháp sau 20 năm mà tôi không theo dõi được trong thời gian VN “đóng cửa”, nên khi quay lại, tôi tốn nhiều thì giờ hơn cần thiết để làm luận văn cao học rồi cao học chuyên sâu, mỗi lần cách nhau nhiều năm. Tôi đi làm, còn chồng thì đã nghỉ hưu từ lâu, nên tôi là trụ cột kinh tế của gia đình; làm nghiên cứu chỉ là chuyện làm sau giờ làm việc trường, việc nhà. Cực thì không kể xiết, nhưng tôi không phiền. Vì mỗi lần tôi có dịp nghiên cứu sâu một đề tài mà mình thích.
Thách thức nhất, là khi tôi quyết định đi học MBA. Lúc đó con trai lớn tôi 14 tuổi, nhỏ mới 8 tuổi. Tôi hỏi ý kiến cháu lớn, câu trả lời của cháu làm tôi giật mình: “Mẹ muốn học thì học, con không sao, con chỉ hơi tội nghiệp em”. Mà tội nghiệp thiệt. Vì trách nhiệm quản lý đã là gánh nặng, lại thêm tất cả các buổi tối đi học tới 2 giờ, trong suốt hơn 2 năm (bao gồm lớp Pre-MBA). Học theo kiểu ngoại quốc là nhiều sách phải đọc, nhiều dự án, bài tập nhóm, v.v… Chồng, con thay nhau bệnh (chắc chắn thời gian đó họ không được chăm sóc tốt bằng trước khi tôi đi học, vì tôi phải giao khoán nhiều thứ cho người giúp việc), chỉ có tôi là không có quyền bệnh. Tôi hiểu sâu sắc lời má tôi nhiều chục năm về trước…
Việc bà quyết định từ Pháp về nước hoạt động cách mạng trong khi đất nước đang có chiến tranh ác liệt là do đâu và bà có trăn trở nhiều về chuyện đó không?