Chúng tôi cho rằng Kê minh thập sáchvà tác giả của nó bị cái nhìn thiên lệch của sử gia phong kiến đối với các nữ học sĩ, nữ phi tần chăng? Nên đã bỏ qua, đã lờ đicác công tích của “phái yếu”, không muốn họ vượt trội tài năng của “phái mày râu”! Quan điểm này không phải không từng xảy ra khi đã có một số nhà sử học phong kiến nói về ý chí của Bà Trưng rằng nổi binh đánh quân Hán trước hết là vì “giận loài tham bạo thù chồngchẳng quên!”. Còn như với nữ văn sĩ Đoàn Thị Điểm, theo chúng tôi, khi bà viết lại truyện bà Bích Châu thì ở “ngôi đền thiêng nơi cửa biển” này, phải sưu tập tương đối đầy đủ mọi tư liệu hành văn và tư liệu truyện kể dân gian để có thể cấu thành một tiểu sử khá chi tiết và sinh động về vị liệt nữ thần thánh từng được nhân dân thờ phụng từ lâu đời, từng được các đời vua tôn vinh (có cả văn tế, điếu của vua Trần Duệ Tông, có cả bài thơ và ban mỹ tự và câu đối của vua Lê Thánh Tông ca ngợi bà). Tromg tiểu sử bà Bích Châu, nhà văn Đoàn Thị Điểm đã dẫn ra hoàn cảnh ra đời văn bản Kê minh thập sách, nguyên văn chữ Hán của “mười kế sách” này, cũng thật khó tin là do họ Đoàn bịa ra hoặc hư cấu mà có! Đến như những chứng dẫn về văn tài của Bích Châu, cụ thể đến từng chi tiết, thì Đoàn Thị Điểm càng không thể bịa ra được. Chẳng hạn như: Một lần gặp tiết Trung thu, vua Duệ Tông nhìn ánh trăng lấp loáng, gác tía đèn treo, liền ra một vế câu đối: Thu thiên hoạ các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế(trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng), Nguyễn Bích Châu liền tươi cười, ung dung đối rằng: Xuân sắc trang đài khai bảo kính thuỷ để phù dung(Sắc xuân đài trang mở gươm báu, phù dung đáy nước). Vua hết lời khen ngợi, ban cho nàng một đôi Ngọc long kim nhĩ(Hoa tai vàng nạm ngọc hình rồng leo) và đặt tên hiệu cho nàng là Phù Dung. Bà Đoàn Thị Điểm thật là có công “phục nguyên” cho hậu thế văn bản Kê minh thập sáchvà các thơ văn khác của Nguyễn Thị Bích Châu. Nhờ vậy mà hôm nay chúng ta lại có dịp bàn thảo về tác phẩm đó. Nhân nói về ý nghĩa của Kê minh thập sáchcủa bà Bích Châu, có ý kiến đề cập về cái chết của bà. về sự hiển linh của vị “Chế Thắng phu nhân” này.
Hiện có hai thuyết: Thuyết thứ nhất (theo truyền thuyết dân gian) cho biết bà xa giá theo vua Duệ Tông đi đánh trận ở Chiêm Thành, trong khi chỉ huy trận đánh nhằm bảo vệ vua, bà bị trúng mũi tên độc và từ trần vào lúc nửa đêm ngày 12 tháng 2 âm lịch (đúng vào năm 1377 dương lịch). Duệ Tông vô cùng thương tiếc, có bài điếu văn tỏ lòng đau xót sâu sắc. Ba ngày sau vua cũng tử nạn. Linh cữu hai vị được đưa về nước theo đường thuỷ. Nhưng đến Châu Hoan thì bị bão tố, không đi được. Quân quan rước linh cữu vua theo đường bộ và an táng ở Nam Định. Còn linh cữu bà Bích Châu lưu lại sau, phải lánh vào trú tại cửa khẩu thuộc huyện Hoa Kỳ (nay là Kỳ Anh) rồi an táng tại đây và lập đền thờ vọng ở Eo Bạch dưới chân núi Mũi Đòn (Vũng Ánh ngày nay). Bà Đoàn Thị Điểm theo thuyết này viết Hải khẩu linh từ.
Thuyết thứ hai cho rằng, đoàn chiến thuyền của vua Duệ Tông đi chinh phạt Chiêm Thành, giữa biển gặp phải bão tố lớn, không tài nào tiến lên được. Thần nước hiện lên đòi nhà vua phải gả cho mình một cung phi để làm vợ thì sẽ cho gió yên biển lặng, nếu không sẽ nguy nan. Trong lúc vua Trần chưa biết xử lý thế nào, thì Bích Châu tự nguyện làm “vật hiến tế” để cứu cho vua và toàn quân, và nàng đã gieo mình xuống biển quyên sinh.
Cả hai thuyết này đều có thể chấp nhận được. Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành và bà mất là đúng sự thực lịch sử; chuyện hiến tế cũng từng quen thuộc trong phong tục xưa, cũng từng tồn tại trong lịch sử văn hoá Việt Nam .
Cụ Phan Bội Châu, nhà chí sĩ yêu nước tiêu biểu, nhiệt thành nhất, hoạt động cứu nước ở nửa đầu thế kỷ XX, vẫn lại dùng cụm từ kinh điển này để làm nhan đề viết một bài thơ khá nổi tiếng, nhằm tiếp tục thức tỉnh nhân dân ta. Đó là bài Kê ký minh hỉ(gà đã gáy rồi) gửi đăng trên tờ Đông Phương tạp chísố 1 ra ngày 1 - 1 - 1939 để mừng tờ báo tiến bộ của một số đảng viên Đảng Cộng sản ở Mỹ Tho đúng vào ngày tờ báo này chào đời, đúng vào thời điểm Đảng Cộng sản Đông Dương đang tiến hành đẩy mạnh hoạt động phong trào Đông Dương đại hội Mặt trận dân chủ Đông Dương. Chúng tôi xin trích đăng mấy câu của bài thơ để kết thúc bài viết này:
“Kê ký minh hĩ
Đông phương minh hĩ
Đọc hai câu thơ ấy vội mừng ngâm,
Đêm năm canh ảm đạm ngâm trầm,
Gáy một tiếng vang ầm ba bốn mặt!
Thôi giục vừng hồng trên quả đất,
Sau tiếng gà gáy bỗng thấy mặt trời lên
Màn mây mù quét sạch, hiện thanh thiên,
Luồng đau khổ đánh tan, trình hỉ khí!
Nào bạn lao nông, nào nhà chính trị,
Nào làng văn sĩ, nào cửa thần quyền,
Thời thế ấy quyết vai liền cánh rập.
Nước quanh non khơi đầu mấy lớp,
Máu chung ruột thịt há đôi đường?
Gì danh, gì lợi chi màng?
Đồng tâm hai chữ đá vàng chẳng phai.
Ai ơi! Đông đã rựng (2) rồi,
Rập nhau ta dựng vũ đài ta lên,
Chí bền vạn sự phải nên...
----------
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch tập II. Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr 17.
2. Rựng: ửng hồng, lúc mặt trời mới mọc.