Hội chứng "Trắng gan - Trắng mang" trên cá tra
Chính vì thế, vừa qua Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II (Viện II) đã tổ chức Hội thảo chuyên để về bệnh "trắng gan - trắng mang" trong khuôn khổ để tài nghiên cứu khoa học nhằm xác định tác nhân gây bệnh này và đề ra biện pháp phòng trị hữu hiệu. Kết quả bước đầu từ khảo sát và ghi nhận từ thực tế sản xuất của các cơ sở sản xuất giống và nuôi thương phẩm trong phạm vi các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Vĩnh Long là mức độ gây thiệt hại đối với bệnh này là nghiêm trọng (5 - 60%), chưa có thuốc điều trị hiệu quả và có chung nhận xét như sau :
- Thời gan xuất hiện: Bệnh này xảy ra chủ yếu trên cá tra giống và cá nuôi thương phẩm trong giai đoạn đầu (dưới 3 tháng tuổi) và thường theo sau một số bệnh nhiễm khuẩn như bệnh gan thận mủ, xuất huyết. . . có sử dụng kháng sinh không đúng cách và điều trị dài ngày (7 - 10 ngày). Thời điểm xuất hiện bệnh gan như quanh năm nhưng tập trung vào những lúc chất lượng nước có nhiều biến động như giao mùa, đầu mùa lũ.
- Biểu hiện bệnh: Khi cá mắc bệnh, quan sát bên ngoài thấy vi cá mất màu, mang cá chuyền từ màu đỏ tươi thành trắng nhạt, cá bơi lờ đờ cập bờ và thường tập trung nơi có nước chảy, cá sẽ chết nhanh khi vớt ra khỏi ao. Biểu hiện này là do mang cá bình thường có màu đỏ thắm, là nơi tập trung dày đặc các mạch máu để thực hiện chức năng hô hấp vận chuyển và trao đổi khí. Sự mất màu và chuyển sang màu trắng nhạt ở mang là do hồng cầu đã biến mất, sụt giảm nghiêm trọng hoặc không có huyết sắc tố (hemoglobin).
- Bệnh tích: Giải phẫu cá bệnh, quan sát bên trong thấy xoang bụng và tất cả nội quan đều có màu vàng rơm hay vàng nhạt, túi mật sưng chứa đầy dịch vàng trong, tỳ tạng cá teo nhỏ, hệ tiêu hóa không có thức ăn.. Ngoài việc đổi màu do sự thiếu huyết sắc tố thì không phát hiện thương tổn nào khác, nhất là gan thận của cá nuôi trong cùng một ao, không có sự khác biệt ở cá bệnh và cá khỏe.
Tuy nhiên, vẫn có ghi nhận khác từ phía một số người nuôi là bệnh này phát hiện đồng thời với nhiễm khuẩn và ký sinh trùng…. Và theo kết quả khảo sát bước đầu của Viện II, tại Vĩnh Long, Đồng Tháp, Thốt Nốt (Cần Thơ), An Giang, đã ghi nhận biểu hiện bệnh có nhiều dạng khác nhau như:
+ Dạng 1: Cá bệnh có biểu hiện bên ngoài bình thường, không xuất huyết trên thân và các gốc vây, không chướng bụng. Kiểm tra mang cá cho thấy, mang cá đã chuyển sang màu trắng hồng nhạt, vòng theo cung mang có viền lấm tấm màu xám nhạt đến xám sậm trên các sợi tơ mang. Đặc biệt, mang cá không tiết nhớt trắng đục, mặc dù mang cá mất sắc tố nhưng tơ mang vẫn sạch, mượt, khi cá bệnh nặng (đã bỏ ăn) màu cá cũng trở nên hồng nhạt, gan không còn sắc tố chuyển sang màu vàng đất.
+ Dạng 2: Cá bệnh có biểu hiện xuất huyết nhẹ ở các gốc vây, không xuất huyết dạng đốm, không chướng bụng. Mang cá cũng mất sắc tố, chuyển sang hồng nhạt, nhưng màu hồng không tươi sáng như dạng 1 và mang cũng không tiết nhiều nhớt, trên các tơ mang có lẫn những tia máu thật mảnh như sợi chỉ. Máu cá cũng mất sắc tố nhưng nhạt màu không như dạng 1 và có màu hồng tối.
+ Dạng 3: Cá bệnh có biểu hiện xuất huyết lấm tấm ở mặt bụng, gốc vây cũng xuất huyết lấm tấm dạng điểm. Mang cá không còn đỏ tươi và đã chuyển sang hồng nhạt. Trên mang xuất huyết lấm tấm dạng điểm. Mang cá rất sạch, không tiết nhớt. Gan, thận không biến màu; Tì tạng sậm màu, máu cá không mất sắc tố.
Tất cả chỉ mới là bước đầu ghi nhận trong quá trình nghiên cứu. Các nhà khoa học của Viện II đang trong quá trình nghiên cứu sâu với số lượng bệnh phẩm lớn được thu từ các vùng nuôi khác nhau để xác định tác nhân gây bệnh, tìm ra cơ chế lây nhiễm từ đó mới hoàn toàn có cơ sở khoa học đưa ra các biện pháp kỹ thuật đề phòng và điều trị bệnh hiệu quả. Mặc dù hiện nay chưa oó thuốc đặc trị, nhưng dựa trên nguyên lý và cơ chế phát sinh bệnh thủy sản nói chung, người nuôi vẫn có thể giảm thiểu tác nhân gây bệnh và thiệt hại do hội chứng "trắng gan, trắng mang" gây ra bằng các biện pháp tổng hợp sau đây:
1. Cải tạo môi trường nuôi:
Tẩy dọn ao thật kỹ trước khi ương nuôi: Nạo vét kỹ bùn dưới đáy ao, tu sửa lại bờ mương, dọn sạch cỏ rác, phơi đáy ao, sau đó dùng các loại hóa chất để tẩy dọn nhằm diệt dịch hại và sinh vật là ký chủ trung gian, sinh vật cạnh tranh thức ăn của tôm cá như các loài cá dữ , cá tạp, giáp xác, côn trùng, nòng nọc, sinh vật đáy; diệt các sinh vật gây bệnh cho cá như các giống loài vi sinh vật: vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào và các loại ký sinh trùng.
+ Dùng vôi để sát khuẩn: Vôi sống, vôi bột hoặc vôi tôi, liều lượng: 10-15kg/100m 2định kỳ có thể rắc vôi 2 tuần/ lần : 10-20g/m 3nước, treo túi vôi ở bè nuôi :2-4kg/10m 2bè.
+ Dùng Clorua vôi (Ca(OCL) 2tẩy ao, sát trùng dụng cụ nuôi, liều lượng: 50ppm (50g/m 3), ngâm dụng cụ qua đêm nồng độ: 200-220ppm.
2. Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh:
Tiến hành kiểm dịch giống trước khi vận chuyển, dùng các biện pháp xử lý để tránh mang mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác.
- Sát trùng cơ thể cá: Mặc dù ao đã tẩy dọn kỹ, nhưng cá giống có thể mang mầm bệnh vào ao hồ nên sau khi kiểm dịch, tùy theo kết quả mà chọn:
+ Tắm cá: CUSO 45H 2O (phèn xanh) 2- 5ppm/ 5-15 phút; Muối ăn NaCL 3-5%/ 3-5 phút; Formalin 200-300 ppm/ 15-20 phút.
+ Phun xuống ao 1 trong các loại hóa chất trên, nồng độ giảm đi 10 lần.
- Sát trùng nơi cá đến ăn: Nơi cho cá ăn thường chứa thức ăn bị thừa, thối rữa gây nhiễm bẩn, tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển. Do đó nên vớt bỏ thức ăn thừa, rửa sạch sàng ăn, thường xuyên khử trùng địa điểm cho ăn. Loại thuốc, liều dùng tùy thuộc vào chất nước, nhiệt độ và mực nước trong ao. Tốt nhất dùng vôi nung hoặc clorua vôi treo 2-3 túi xung quanh chỗ ăn để tẩy trùng, liều lượng: 2-4kg/túi vôi nung, 100-200g/ túi Clorua vôi.
- Sát trùng dụng cụ: Dùng dung dịch Ca(OCL) 2200ppm để ngâm ít nhất 1 giờ và rửa sạch mới dùng. Nên dùng dụng cụ riêng biệt từng ao, nếu thiếu sau khi sử dụng phải có biện pháp khử trùng trước khi dùng cho ao khác.
- Dùng thuốc phòng ngừa trước mùa phát triển bệnh: Sử dụng các lọai sản phẩm có tác động đến sự phục hồi hoạt động của thận, tỳ tạng, gan, gia tăng mật số huyết sắc tố trong máu để đảm bảo chức năng vận chuyển và trao đổi oxy (TS. Nguyền Đức Hiền).
3. Tăng sức để kháng của cơ thể ĐVTS nuôi:
- Nên mua con giống để ương và nuôi có nguồn gốc bố mẹ rõ ràng, tốt nhất là nên sử dụng con giống đã được chọn lọc có chất lượng cao ở các Trung tâm giống thủy sản và các cơ sở ương có uy tín.
- Định kỳ bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng cho vật nuôi, nhất là vào thời điểm giao mùa.
4. Cải tiến kỹ thuật ương nuôi:
- Không nên ương, nuôi mật độ quá dày: Mật độ ương từ cá bột lên cá hương từ 300 - 400 con/m 2; cá hương lên cá giống từ 100 - 150 con/m 2, mật độ nuôi thương phẩm từ 25 -30 con/m 2.
- Cho cá ăn đảm bảo chất và số lượng theo giai đoạn phát triển, lúc cá có dấu hiệu bệnh nên giảm lượng thức ăn;
- Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật tốt, tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa biến động lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất;
- Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân thủ theo qui định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của của chuyên môn kỹ thuật.
- Đinh kỳ 10 -15 ngày sử dụng muối và vôi để sát khuẩn cho cá.
Động vật thủy sản mắc bệnh là kết quả tác động lẫn nhau giữa vật chủ (thủy sản nuôi), mầm bệnh và môi trường sống, bệnh xảy ra khi sự thăng bằng của 3 nhân tố trên bị xáo trộn. Do đó, việc áp dụng các biện pháp tổng hợp trên để phòng sẽ hạn chế thấp nhất rủi ro do bệnh gây ra và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cho nghề nuôi.