Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 16/12/2008 23:13 (GMT+7)

Hoàng Sa - Trường Sa

Thời kỳ hậu thế chiến II

Năm 1945 (ngày 15 - 8), Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 19 - 8, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Việt Nam được thành lập vào ngày 20 - 8. Ngày 15 - 8, vua Bảo Đại thoái vị; ngày 2 - 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt nam độc lập với chính thể Dân chủ Cộng hoà.

Nước Pháp lúc đó đã có âm mưu tái chiếm Đông Dương.

Năm 1946 (ngày 28 - 2), một bản Thoả ước Trung - Pháp được ký ở Trùng Khánh. Theo đó, lính Pháp sẽ thế chân lính Quốc Dân đảng Trung Hoa chiếm đóng Bắc kỳ.

Mặt khác, Chính phủ Việt Nam ký với các đại diện Pháp Hiệp định Sơ bộ 6 - 3 - 1946. Nước Pháp nhìn nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nước thành viên của khối Liên hiệp Pháp.

Việc thi hành Hiệp định Sơ bộ 6 - 3 - 1946 gặp nhiều khó khăn. Kể từ tháng 12 - 1946, tình hình căng thẳng rồi đưa đến cuộc kháng chiến toàn quốc (ngày 19 - 12 1946). Pháp nghĩ ra việc sử dụng lá bài một nước “Quốc gia Việt Nam” và ký hiệp ước ngày 8 - 3 - 1949 với Bảo Đại. Chiến tranh Việt – Pháp kết thúc bằng Hiệp ước Genève (ngày 20 - 7 - 1954) với sự rút quân Pháp ra khỏi Đông Dương. Nhưng chiến tranh Việt Mỹ lại bắt đầu với sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam và mãi đến năm 1975 mới kết thúc, nước Việt Nam được thống nhất.

Đến lượt Chính phủ Tưởng Giới Thạch phản đối và hai bên mở cuộc thương thuyết ở Paris từ ngày 25 - 2 đến ngày 4 - 7 - 1947. Chính phủ Tưởng Giới Thạch bác bỏ đề nghị nhờ một nước thứ ba làm trung gian hoà giải do Chính phủ Pháp đưa ra. Ngày 1 - 2 - 1947, Tưởng Giới Thạch ký một sắc lệnh đặt tên Trung Quốc cho các đảo của hai nhóm Hoàng Sa và Trường Sa và tuyên bố sáp nhập hai quần đảo này vào lãnh thổ Trung Hoa.

Năm 1948, ở Trung Hoa xảy ra những biến động liên tiếp khiến dư luận quốc tế không chú ý đến vụ Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1949 (tháng 4), Hoàng thân Bửu Lộc, Đổng lý Văn phòng của Quốc trưởng - năm 1953 - đã tái khẳng định một cách công khai chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo trong một buổi diễn thuyết ở Sài Gòn.

Năm 1950 (tháng 4), toán lính Tưởng Giới Thạch đồn trú trên đảo Phú Lâm rút đi. Pháp vẫn tiếp tục cho đóng quân trên đảo Hoàng Sa (Pattle).

Năm 1950 (ngày 14 - 10), Chính phủ Pháp chính thức trao trả chủ quyền hai quần đảo này cho Chính phủ Bảo Đại. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc đó là Phan Văn Giáo (năm 1904…) đã ra tận Hoàng Sa tiếp nhận quyền chuyển giao chủ quyền Hoàng Sa. Lúc đó ở quần đảo Trường Sa không có một lực lượng quân sự nào đồn trú cả.

Năm 1951, quần đảo Trường Sa là đối tượng của nhiều vụ tranh chấp diễn ra bằng đường lối ngoại giao. Tổng thống Philippines là Quirino (ngày 17 - 5 - 1951) lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa, lấy cớ là Trường Sa ở sát cạnh quần đảo Philippines. Ngày 24 - 8, hãng Thông tấn Tân Hoa Xãbác bỏ chủ quyền của Pháp với lời đòi hỏi của Philippines, họ khăng khăng cho rằng chủ quyền của hai quần đảo phải thuộc về Trung Quốc.

Mùa hè năm 1951, dự án bản vẽ bản hoà ước với Nhật được thành hình. Hoà ước này được ký kết vào ngày 8 - 9 - 1951. Điều 2, đoạn 7 của bản hoà ước ghi rõ:

“Nước Nhật từ bỏ mọi quyền, mọi đòi hỏi đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Năm 1951 (tháng 9), Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ) khai mạc, nhưng cả Trung quốc lẫn Đài Loan đều không tham dự. Trong phiên họp khoáng đại ngày 5 - 9 của Hội nghị, Ngoại trưởng Gromyko của Liên Xô (cũ) đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính đầu tiên liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đối với “các đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa ở Phía Nam ”. Khoản tu chính này bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận.

Năm 1951 (ngày 7 - 9), Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hưu của Chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận về lời tuyên bố này. Khi hội nghị bế mạc, vấn đề chủ quyền của hai quần đảo vẫn còn bị bỏ lửng.

Năm 1955 (tháng 10), Tổ chức Hàng không Dân dụng quốc tế mở một hội nghị ở Manila đưa ra nghị quyết số 24 yêu cầu Chính phủ Đài Loan củng cố hệ thống quan sát khí tượng trên quần đảo Nansha (Nam Sa tức Trường Sa) nhưng không có sự phản đối hoặc lời phát biểu dè dặt nào.

Năm 1956 (tháng 4), quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Chính phủ Việt Nam cộng hoà đưa quân của mình đến trú đóng ở đảo Hoàng Sa thay thế cho số lính Pháp. Nhưng Trung Quốc liền âm thầm đưa ngay lính đến chiếm đóng đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Kể từ năm 1956 trở đi, lực lượng Trung Quốc đóng ở phía Đông Hoàng Sa (đảo Phú Lâm). Lực lượng Việt Nam Cộng hoà (Sài Gòn) trấn đóng các đảo phía Tây (Hoàng Sa, Quang Ảnh, Tri Tôn, Cam Tuyền, Duy Mộng…). Tại đây, chính quyền Sài Gòn tổ chức nghiên cứu về thủy đạo, khai thác phốt - phát và dựng bia chủ quyền Việt Nam Cộng hoà.

Ngày 5 - 3 cùng năm này (1956), một công dân Philippines tên là Thomas Cloma cùng mấy người nữa ra chiếm đóng vài đảo trong nhóm quần đảo Trường Sa viện lẽ đó là những đảo hoang vô chủ và đặt tên cho những vùng đã chiếm là “Đất tự do” (Freedomland). Sau đó, ông ta thông báo cho Ngoại trưởng Philippines biết các sự việc. Ông ta liền tổ chức một cuộc họp báo tại Manila vào ngày 19 - 5 - 1956 và tuyên bố là ngoài 7 (bảy) hòn đảo được quốc tế biết đến dưới cái tên là Trường Sa, tất cả các đảo nhỏ linh tinh khác trong Quần đảo này đều là vô chủ (res nullius) (1).

Năm 1956 (ngày 31 - 5), Bắc Kinh đưa ra một thông báo cho biết rằng mọi vi phạm đến chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Trường Sa sẽ không được dung thứ. Cùng lúc, Đại sứ của Chính phủ Đài Loan ở Manilacũng đưa ra lời tuyên bố khẳng định chủ quyền của Trung Hoa có từ thế kỷ XV. Tiếp theo lời tuyên bố, một đơn vị của quân đội Đài Loan được phái đến đồn trú trên đảo Itu Aba.

Năm 1956 (ngày 1 - 6), Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày hôm sau Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo từ năm 1933.

Ngày 22 - 8 - 1956, lực lượng hải quân của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt Nam) đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương Quốc kỳ. Tháng 10 cùng năm đó, hải quân Đài Loan đến khu vực Trường Sa can thiệp, trục xuất Thomas Cloma.

Ngày 22 - 10 - 1956, Chính phủ Sài Gòn ký Sắc lệnh sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

Năm 1958 (tháng 2), nhiều ngư dân Trung Quốc tìm cách xâm nhập phía tây quần đảo Hoàng Sa, nhưng bị lực lượng hải quân Việt Nam đẩy lùi và trục xuất khỏi đảo.

Ngày 4 - 9 - 1958, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra một thông báo cho biết rằng chiều rộng của vùng lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý (12 milles marins). Bản Tuyên cáo nói rõ là chiều rộng này áp dụng cho cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Tin tức về bản Tuyên cáo này được báo Nhân dân– cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Lao động Việt Nam đăng tải và không ra lời bình luận.

Ngày 4 - 9 cùng năm, Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Phạm Văn Đồng) trong một văn kiện gửi cho Chính phủ (Thủ tướng) Trung Quốc, khẳng định: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 - 9 - 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định đó” (2).

Năm 1965 (ngày 9 - 5), Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khi phản ứng lại sự phân định ranh giới “vùng oanh kích tự do” do Chính phủ Mỹ đưa ra đã tuyên bố (theo tài liệu Trung Quốc) “Tổng thống Lyndon Johnson của Mỹ đã chỉ định cho các lực lượng Mỹ tham chiến ở Việt Nam một vùng oanh kích tự do trải dài đến 100 hải lý trong lãnh hải Việt Nam và một phần trong lãnh hải Trung Quốc tiếp cận với quần đảo Xisha (Tây Sa) của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (3).

Năm 1971 (ngày 11 - 7), Tổng thống Philippines cho biết binh sĩ Đài Loan đã chiếm đóng và củng cố đồn trại ở đảo Itu Aba (trong nhóm Trường Sa) nhưng không nói gì về chủ quyền của Philippines, mặc dầu quân đội nước này đã dưa mấy đơn vị quân đội chiếm dóng ở một vài đảo rồi. Cùng ngày, Ngoại trưởng của Chính phủ Sài Gòn (Trần Văn Lắm) có mặt tại Manila cũng nhắc lại lập trường chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày 16 - 7 cùng năm, Tân Hoa Xãlên án sự chiếm đóng của Philippines ở các đảo Trường Sa và tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc.

Năm 1973, trong lúc hội nghị Paris về Việt Nam đang diễn ra (tháng 3) Bộ trưởng Nội vụ Chính phủ Sài Gòn Lê Công Chất ký Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy (4).

Năm 1974 (ngày 11 - 1), Bắc Kinh tuyên bố rằng sự sáp nhập là một việc xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc và tái khẳng định là cả hai quần đảo trên đều thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Ngày 15 - 1, Trung Quốc cho quân đổ bộ lên phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa (nhóm đảo phía tây gồm các đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền, Duy Mộng, QuangẢnh…) vốn vẫn do quân lực Việt Nam Cộng hoà chiếm giữ từ trước. Mấy ngày sau, Trung Quốc đưa thêm tàu chiến để yểm trợ cuộc đổ bộ của họ.

Ngày 18 - 1, viên Đại sứ Đài Loan ở Sài Gòn đưa công hàm tái khẳng định chủ quyền của Trung Hoa (Đài Loan).

Ngày 19 và 20, quân đội Trung Quốc pháo kích vào các đảo và mở những trận tấn công dữ dội vào quân đội Sài Gòn, đổ bộ chiếm đóng các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Lúc đó Quan sát viên của Việt Nam Cộng hoà (Sài Gòn) tại Liên Hiệp Quốc yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc xem xét vấn đề.

Cùng thời điểm, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam công bố quan điểm của mình. Theo đó, trước sự phức tạp của vấn đề, các bên cần phải xem xét trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau và nên tìm cách giải quyết tình hình bằng cách ngồi lại để thương thuyết.

Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (Sài Gòn) yêu cầu ngũ giác đài (Bộ Quốc phòng Mỹ) can thiệp, nhưng Mỹ quyết định đứng ngoài, không nhúng tay vào vụ tranh chấp.

Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (Sài Gòn) gửi một văn kiện ngoại giao đến tất cả các nước có ký tên trong Hiệp ước đình chiến Paris, ngày 2 - 3 - 1973, nhắc lại lời hứa bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và yêu cầu Hội đồng bảo an mở một phiên họp đặc biệt (5).

Năm 1974 (ngày 2 - 7), Đại diện Việt Nam (Việt Nam Cộng hoà) trong một phiên họp của Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố về quyền lãnh hải để tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1975 (ngày 5 và 6 - 5), hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam thay chân của toán lính Sài Gòn để kiểm soát các đảo ở Trường Sa.

Ngày 10 - 9 - 1975, Trung Quốc gửi cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một bức công hàm nhắc lại là chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Ngày 29 - 9 - 1975, nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của một phái đoàn Việt Nam, Đặng Tiểu Bình lúc đó là Phó Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố: “Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa sẽ là đề tài cho những cuộc tranh cãi trong tương lai”.

Năm 1977 (ngày 12 - 5), Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề lãnh hải (vùng lãnh hải, vùng tiếp cận, đặc khu kinh tế và thềm lục địa).

Năm 1978 (ngày 2 - 3), quân đội Philippines chiếm thêm một đảo nữa trong nhóm Trường Sa; đó là đảo Lankian Cay (Cồn San hô).

Năm 1979 (tháng 2), Tổng thống Philippinesra sắc lệnh tuyên bố hầu hết các đảo trong nhóm Trường Sa đều thuộc chủ quyền Philippines (trừ chính đảo Trường Sa).

Ngày 12 - 11 - 1982, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công bố những đường căn bản sử dụng trong công việc đo đạc chiều rộng lãnh hải của mình. Các quần đảo Hoàng Sa và TrườnG=g Sa được gom trong các đường cơ sở đó.

Năm 1983 (ngày 23 - 2), Malaysia đưa ra vấn đề chủ quyền của họ đối với ba hòn đảo trong nhóm Trường Sa.

Ngày 25 - 3, Bộ Ngoại giao Việt Nambác bỏ mọi đòi hỏi của Malaysia đối với các đảo nói trên. Và cũng trong tháng 6 cùng năm, Malaysia đưa binh linh ra chiếm đóng đảo Hoa Lau và bắt đầu những công trình xây dựng, Chính phủ Việt Nam phản đối quyết liệt.

Năm 1985 (ngày 2 - 6), Quốc hội Trung Quốc quyết định thành lập một đặc khu hành chánh bao gồm đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố phản đối sự việc này.

Năm 1988 (tháng 2), lần đầu tiên Trung Quốc đưa quân đến Trường Sa biểu dương lực lượng quân sự của mình.

Ngày 14 - 3 - 1988, hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam chạm trán nhau trong vùng Johnson South Reef (đảo Gạc Ma), Cllins Reef (đảo Côlin) và London Reef (đảo Đá Tây). Nhiều tàu chiến Việt Nam bị hư hại, hải quân Trung Quốc đã dùng đến đại bác cỡ lớn, có 74 thuỷ binh Việt Nam bị ghi nhận mất tích. Tàu chiến Trung Quốc ngăn cản không cho các tàu cứu thương có mang cờ chữ thập đỏ của Việt Nam cứu vớt những binh sĩ bị thương.

Sau đó theo lời phát ngôn Việt Nam, hải quân Trung Quốc còn tiếp tục ngăn chặn các cuộc tiếp tế của tàu Việt Nam . Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam bên nào cũng lên tiếng phản đối, nhưng kể từ đó các sự việc cứ được để lửng lơ như đây.

Cũng trong năm 1988 (tháng 4), Chính phủ Phippines cho bầu một thị trưởng để trông coi một đơn vị hành chánh được họ thành lập trên các đảo nhỏ trong nhóm Trường Sa (đảo Thị Tứ), củng cố thêm sự đòi hỏi chủ quyền của họ bằng một cơ sở hành chánh có tổ chức.

Năm 1989 (tháng 5), Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ ở Trường Sa.

Tháng 8 năm 1989, Việt Nam bắt đầu xây dựng một đặc khu Kinh tế - Khoa học trên quần đảo Trường Sa.

Năm 1990 (tháng 8), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị một cuộc khảo sát chung giữa Trung Quốc và Việt Nam trong khu vực Trường Sa.

Năm 1991 (ngày 15 và 18 - 7), do sáng kiến của Indonesia một hội nghị quốc tế được tổ chức ở Bangdung giữa các nước trong vùng để bàn về vấn đề Trường Sa. Cuộc hội nghị các bên đưa ra một bản Thông cáo chung kêu gọi đối thoại và thương thảo.

Năm 1992 (ngày 2 - 2), Trung Quốc đưa ra một đạo luật mới qui định lại vùng lãnh hải của họ, mở rộng thêm bằng cách bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1992 (tháng 5), Trung Quốc cho phép Công ty Crestone - Energy của Mỹ vào thăm dò tìm dầu lửa ở phía nam biển Đông, cách bờ biển Việt nam 300 cây số trong một vùng mà Chính phủ Việt Nam xem là đặc khu kinh tế của mình. Ngày 8 - 7 cùng năm, Trung Quốc chiếm thêm mấy đảo nhỏ nữa thuộc nhóm Trường Sa.

Năm 1994, Trung Quốc nhiều lần nhắc lại đề nghị nên tạm hoãn không nhắc đến các vụ tranh chấp đất đai mà nên hướng về công việc chung sức dò tìm và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.

Năm 1994 (tháng 4), báo chí thế giới (tạp chí Far Fastern Economic Reviewsố ra ngày 13 - 10) loan tin một vụ chạm trán giữa một tàu Trung Quốc đang thực hiện một cuộc thăm dò địa chất cho Công ty Crestone và các tàu chiến Việt Nam. Các tàu Việt Nambuộc các tàu Trung Quốc phải rút đi nơi khác không được xâm phạm một vùng biển được xem là của Việt Nam . Tàu Trung Quốc đã nhượng bộ và rút lui.

Ngày 23 - 6 - 1994, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về luật biển của Liên hiệp quốc 1982.

Năm 1995 (ngày 9 - 2), Philippines phản đối Trung Quốc về việc Trung Quốc đã chiếm một đảo nhỏ mà Philippines cho là thuộc chủ quyền của mình (đảo Vành Khăn) và đã xây dựng tại đó một bến đậu cho tàu biển.

Hiện nay (6) có 5 nước (Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Bruney và đảo quốc Đài Loan) đang tranh chấp nhau về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Riêng quần đảo Hoàng Sa thì đã bị Trung Quốc độc chiếm sau các trận đụng độ quân sự với quân lực Sài Gòn (Nam Việt Nam) hồi năm 1974, nhưng không có nước nào đủ bằng cớ xác thực như của Việt Nam, khi Chính phủ Việt Nam đưa hồ sơ ra thương thuyết cũng như dư luận chung.

Chú thích:

1. Thomas Cloma: là chủ một đội thuyền đánh cá, một đội thương thuyền, giám đốc một trường hàng hải tư. Năm 1956, ông cùng với em trai là Filemon Cloma đến vài đảo nhỏ. Đúng ra là họ đến các đảo từ các năm 1949 - 1950.

2. Theo Monique Chemillier, Gendreau La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, Nxb. Le’ Harmattan, Paris, 1996.

3. Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Công an, Hà Nội 1995. Trng sách này tác giả Lưu Văn Lợi có trích đăng nguyên văn bức công hàm gửi Thủ tướng (Tổng lý) ChuÂn Lai, chúng tôi (NQT) trích lại như sau:

“Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 - 9 - 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.

(theo Lưu Văn Lợi, Sđd, tr 105).

4. Theo Monique Chemillier, Gendreau La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, Nxb Le; Harmattanm Paris, 1996.

5. Xem nguyên văn Hiệp ước đình chiến Paris giữa bốn bên (Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Việt Nam Cộng hoà, chính phủ cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam, bằng tiếng Việt và tiếng Anh), bản in Hội Việt Mỹ Sài Gòn, 1973.

6. Hiện nay là thời điểm chúng tôi viết thiên khảo luận này vào năm 1995 nên gọi là hiện nay. Từ đó (1995 - 2007) Trung Quốc đã làm nhiều việc sai trái với sự thật lịch sử và luật pháp Quốc tế, như trong tháng 12 - 2007 họ đã thành lập tại Hoàng Sa, Trường Sa một thành phố mà họ gọi là thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam như đã thấy (2007).

Xem Thêm

Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
Hiện nay Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) có trên 500 tổ chức khoa học và công nghệ (KH &CN). Các tổ chức KH&CN trực thuộc này được thành lập và hoạt động trên cơ sở các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ và nghị định của Chính phủ, điều lệ của Liên hiệp Hội Việt Nam.
Tìm giải pháp chuyển đổi số toàn diện tại Liên hiệp Hội Việt Nam
Hơn 40 năm thành lập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đang nỗ lực hiện đại hóa hoạt động trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, Liên hiệp Hội Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế về hạ tầng công nghệ và nhận thức, đòi hỏi những bước đi chiến lược hơn trong tương lai.

Tin mới

CHỦ TỊCH VUSTA PHAN XUÂN DŨNG CHÚC MỪNG NĂM MỚI XUÂN ẤT TỴ 2025
Nhân dip Xuân Ất Tỵ 2025, TSKH Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã viết thu tay chúc mừng năm mới gửi tới các Hội thành viên, các tổ chức KH&CN trực thuộc; các nhà khoa học, hội viên, cán bộ, viên chức, người lao động thuộc hệ thống VUSTA. Ban biên tập Vusta.vn xin trân trọng đăng toàn bộ nội dung bức thư.
Hà Giang: Tổng kết hoạt động năm 2024 triển khai nhiệm vụ năm 2025
Ngày 16/01, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tỉnh Hà Giang đã tổ chức hội nghị Ban chấp hành (BCH) Liên hiệp hội nhằm tổng kết hoạt động năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025; tham dự hội nghị có đại diện Ban Dân vận Tỉnh uỷ, một số sở, ngành, hội thành viên Liên hiệp hội tỉnh.