Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 25/01/2008 00:17 (GMT+7)

Hoàng Cao Khải và công trình biên soạn về lịch sử nước nhà

Sự ra mắt của cuốn sách này vừa rồi đã làm cho nhiều người ngạc nhiên. Người ta ngạc nhiên không phải là vì nội dung cuốn sách ấy “có vấn đề” gì chăng? Mà chủ yếu ngạc nhiên là vì thấy tên tuổi tác giả của nó (Hoàng Cao Khải) lại được xuất hiện trên văn đàn.

Con người Hoàng Cao Khải xưa nay đang bị một thành kiến khá nặng nề, dư luận xã hội đã nghiêm khắc lên án ông là “tay sai đắc lực của thực dân Pháp”!

Vì ông ta là người trong lịch sử còn “có vấn đề” nên những công trình sáng tác của ông thường bị gạt bỏ, sách báo ít dám đề cập tới, nói tới sợ bị liên luỵ!

Hoàng Cao Khải xưa kia là một vị quan to trong triều thần nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Danh tiếng của ông lừng lẫy một thời. Ông xuất thân chỉ là một viên quan nhỏ nhưng rồi con đường thăng quan, tiến chức của ông đã gặp nhiều may mắn nên chỉ trong vòng 15 năm trời (1882 – 1897) từ một chức quan Huấn đạo ở một huyện lẻ ngoại thành Hà Nội (huyện Thọ Xương) ông đã được nhanh chóng thăng tiến từng bước lên đến tột đỉnh của quan trường với chức Cần chánh điện đại học sĩ, Khâm sai, Phụ chính đại thần của vua Thành Thái và được phong tước Quận công (Diên mậu Quận Công).

Con đường hoan lộ của ông thăng tiến nhanh chóng như vậy một phần do tài năng “kinh bang tế thế” của ông và một phần nữa cũng là do ông đã đắc lực làm việc cho Pháp, được chính phủ Pháp ưu đãi, giao cho nhiều đặc quyền đặc lợi làm cho thanh thế của ông ngày càng lớn mạnh khiến mọi người phải kiêng nể. Và cũng do đó là các phe cánh trong triều thần lúc bấy giờ sinh lòng ghen ghét, đố kỵ, tìm cách dèm pha, thậm chí có kẻ còn định ám hại ông nữa (1).

Thế rồi công chúng oán ghét ông, sách báo đương thời lên tiếng đả kích, châm biếm ông. Có điều là những lời lên án ông thường chỉ mới nói lên một cách chung chung còn những tội ác của ông cụ thể như thế nào thì vẫn chưa thấy có tài liệu nào vạch trần ra cả. Hơn nữa trong những lời quy kết phán xét ông lại còn những điểm chưa thật nhất trí với nhau, còn mâu thuẫn với nhau nữa là khác. Các tầng lớp quan lại đương thời liệt ông vào loại “tay sai đắc lực của thực dân Pháp”. Nhưng trong một số tài liệu mật của chính phủ Pháp lại đánh dấu hỏi nghi ngờ về lòng trung thành của ông đối với “mẫu quốc” (tức là nước Pháp). Sở mật thám Đông Dương của Pháp vẫn lén lút theo dõi mối quan hệ của ông với phong trào Đông du… (2).

Dư luận công chúng gọi ông là “kẻ can tâm bán nước hại dân”. Nhưng những nhà chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh lại tin tưởng ở con người ông vẫn còn chút lòng yêu nước thương nòi… Ngô Đức Kế, một chiến sĩ cách mạng trong một lá thư từ Côn Đảo gửi về cho Phan Bội Châu đã đánh giá khá cao Hoàng Cao Khải, và khuyên Phan Châu Trinh nên lôi kéo Hoàng theo ý tưởng Duy Tân vì tương lai có thể sẽ cần “một người cầm đầu thật vững” như thế… (3).

Trong cuộc đời hoạt động chính trị, hoạt động xã hội trước đây của Hoàng Cao Khải quả thực đang còn nhiều điều bí ẩn chưa được làm sáng tỏ khiến cho ông ta vẫn cứ phải mang một cái thành kiến nặng nề của dư luận xã hội là “một con người trong lịch sử có vấn đề”, cái “có vấn đề” ấy là cái gì? Mong rằng rồi đây các nhà sử học sẽ tìm ra được những cứ liệu cụ thể xác định lại rõ ràng hơn, phán xét lại một cách công bằng hơn.

Còn về mặt hoạt động văn hoá của ông thì dù muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận rằng Hoàng Cao Khải là một nhà nho hay chữ và am hiểu nhiều thơ văn. Sinh thời ông đã biên soạn và sáng tác khá nhiều. Hiện nay trong kho tàng van hoá nước nhà, ông còn để lại một di sản khá phong phú và đa dạng: những lời đề tựa cho các cuốn sách, những bài văn bia, những tập thơ ca và câu đối, những bộ Việt sử, những vở tuồng cổ và nhiều tài liệu chuyên luận hoặc có tính chất giáo huấn…

Trong sự nghiệp trước sáng tác của ông, lĩnh vực được ông quan tâm đến nhiều hơn cả là lịch sử nước nhà. Những công trình biên soạn và sáng tác của ông về đề tài này hiện nay còn lưu giữ lại trong kho tàng văn hoá nước nhà cũng tương đối nhiều. Chúng tôi sưu tầm, có thể vẫn chưa được đầy đủ, cũng đã thấy có trên 10 tác phẩm:

+ 3 bộ Việt sử :

- Việt sử yếuviết bằng chữ Hán.

- Nam sử diễn âmdiễn nôm theo thể văn xuôi.

Hai bộ sử này đều ghi chép lịch sử nước nhà từ đời Hồng Bàng đến thời Hậu Lê.

- Và bộ Namsử quốc âmcũng viết bằng chữ Nôm ghi chép lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời vua Thành Thái triều Nguyễn.

+1 tập thơ ca Vinh Namsử tôn vinh những vị anh hùng dân tộc, ca ngợi những nhân vật lịch sử của nước nhà.

+ 3 vở tuồng cổ lấy sự tích trong lịch sử nước nhà:

­- Vở Tây Nam đắc bằngdiễn sự tích vua Gia Long gặp được Bá Đa Lộc, nhờ đưa Hoàng tử Cảnh đem quốc thư sang cầu viện nước Pháp.

- Vở Tương kỳ khí xadiễn sự tích ông Võ Tánh tuẫn tiết ở thành Gia Định.

- Và vở Trung hiếu thần tiênnói về Hưng Đạo Vương và những sự kiện lịch sử đời Trần.

+ 1 cuốn sách chuyên luận Namsử kính bàn về những chính sách cai trị của các thế lực ngoại bang trên đất nước Việt Nam .

+ Và một số tài liệu có tính chất giáo huấn lấy những tấm gương trong lịch sử nước nhà để răn dạy người đời:

- Việt Nam nhân thần giám(gương các người làm bầy tôi ỏ nước Nam ).

- Làm con phải hiếu(truyện những người con có hiếu ở nước ta).

- Đàn bà nước Nam(nói về những người đàn bà nổi tiếng ở nước Nam ).

Bộ Việt sử yếulà công trình mà tác giả đã phải bỏ nhiều công sức và tâm huyết vào đó để biên soạn. Có lẽ ngay từ hồi ông còn là Huấn đạo huyện Thọ Xương và Giáo thụ phủ Hoài Đức (Hà Tây), phải trông coi việc học hành thi cử, ông đã rất lấy làm lo âu trước chương trình học lúc bấy giờ chỉ quá chú trọng về việc học Bắc sử (sử Tàu) mà coi nhẹ việc học quốc sử (cho nên sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sử mà không biết đất đai nước ta và nòi giống của dân ta như thế nào” và “dân trí chưa được khai thông một ngày là vì gân ta không có cái học quốc sử” (4).

Ông thấy cần phải cho dân học quốc sử để hiểu biết lịch sử nước nhà, học quốc sử để khai thông dân trí… Muốn vậy phải có một cuốn Việt sử cho dân đọc, dân học (các bộ Việt sử lúc bấy giờ, theo ông vẫn còn nhiều nhược điểm chưa đáp ứng được yêu cầu đó). Ý đồ đó đã được ông ấp ủ trong lòng bao nhiêu năm, phải đợi đến khi về nghỉ hưu, có thời gian rỗi rãi mới đem ra thực hiện.

Xuất hát từ mục đích biên soạn cụ thể như vậy nên bộ Việt sử yếucủa ông khác hẳn với các bộ Việt sử hiện có đương thời: Trước hết là nó ngắn gọn hơn rất nhiều, chỉ gói gọn trong 3 quyển mà thôi. Những sử liệu ghi chép trong đó, như tác giả đã nói trong lời đề tựa của cuốn sách: “Những sử tích cũ chúng tôi xin chiếu theo bộ sách Khâm định Việt sử thông giám, còn những sự việc thuộc về phần chính trị chúng tôi lại tham khảo và căn cứ vào bộ Lịch triều hiến chươngđể ghi chép”. Ở đây phần gia công thêm của tác giả là ông đã “lược bỏ bớt những điều huyền bí, khó hiểu và sắp đặt thu gọn lại những sự việc cho thích đáng hợp lý”. Và điều đặc biệt hơn nữa là khi nói về mỗi thời đại, mỗi sự việc quan trọng… tác giả đều có xen vào những lời bình phẩm và phán đoán “để cho độc giả dễ hiểu rõ nguyên nhân thịnh suy của mỗi triều đại”.

Nhờ vậy mà bộ Việt sử yếunày của ông đã mang rõ tính chất một cuốn sách giáo khoa về sử học nhằm cung cấp cho độc giả những kiến thức phổ thông và cơ bản về lịch sử nước nhà. Tuy thế biên soạn xong bộ sử ấy tác giả vẫn chưa thật sự hài lòng vì cuốn sách còn phải viết bằng chữ Hán nó mới phục vụ được cho tầng lớp trí thức, các nhà nho học lúc bấy giờ mà thôi, còn đối với đông đảo quần chúng không am hiểu chữ nho thì nó vẫn còn là xa lạ, khó đọc khó hiểu. Do đó ông đã viết tiếp bộ Nam sử diễn âmviết bằng chữ Nôm theo thể van xuôi cho mọi người dễ hiểu hơn. Bộ sử này cũng ghi chép lịch sử nước nhà đời Hồng Bàng đến thời Hậu Lê. Trong bộ sử này còn có thêm phần nói về tên nước Việt Namqua các thời đại, vị trí, diện tích, địa thế, gốc tích sự mở mang bờ cõi của nước ta, có kèm theo một số bản đồ ranh giới Việt Nam vào các đời. Một vấn đề khá quan trọng ở đây là khi bàn tên nước Việt Namtác giả đã đề nghị “nên gọi nước ta là nước Việt Nam như cách gọi thời Minh Mạng thay vì cách gọi “An Nam” vốn được nước Tàu công nhận từ thờ Lý Anh Tông. Hai chữ “An Nam” ngụ ý phải thuần phục nước Tàu”.

Được biết thêm là trước đó, hồi Hoàng Cao Khải còn làm phụ chính cho vua Thành Thái, ông cũng đã biên soạn một bộ sử Việt bằng quốc âm gọi là Nam sử quốc âm(biên soạn xong năm Thành Thái thứ 19 (1907). Cuốn sách được diễn nôm theo thể văn xuôi gồm 12 tiết ghi chép lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời vua Thành Thái tất cả 4773 năm.

Bản viết tay bộ sử này chưa được lưu hành rộng rãi, hiện nay vẫn còn được lưu giữ trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội với mã số AB 346.

Song song với việc biên soạn các bộ sử Việt, Hoàng Cao Khải thường vẫn làm thơ văn để ca ngợi lịch sử Việt Nam ; ca ngợi những chiến công rực rỡ của đất nước, ca ngợi những vị anh hùng dân tộc và bình phẩm những nhân vật lịch sử nước nhà…

Tập thơ Vinh Nam sửcủa ông đã được trích chọn nhiều bài đưa lên các báo chí (Đông Dương tạp chí) hoặc đưa vào sách giáo khoa giảng dạy ỏ nhà trường…

Mỗi khi nói đến những bài thơ vịnh sử của ông, người ta thường đánh giá cao. Trong bài chú thích về Hoàng Cao Khải ở bộ Từ điển văn họcNhà xuất bản thế giới năm 2005, tác giả Phạm Văn Ánh đã ca ngợi: Thơ vịnh sử Nam của ông có nhiều bài xuất sắc đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện và được lưu truyền rộng rãi” (tr 604, 605). Giáo sư sử học Chương Thâu trong bài giới thiệu cuốn Việt sử yếucủa Hoàng Cao Khải vừa mới được xuất bản năm 2007 cũng đã nhận xét về những bài thơ vịnh sử ấy như sau: “đó là những bài thơ được nhất trí tôn vinh vì cả trình độ tư tưởng và nghệ thuật đều đạt chất lượng cao” … “các ý tứ trong ngôn ngữ các bài thơ không thể là lời lẽ của một người giả dối hay vô tâm, vô tình với đất nước” (5). Bài thơ “Vịnh Trưng Vương” của Hoàng Cao Khải tôi được đọc cách đây đã hơn sáu bảy chục năm rồi mà tôi vẫn nhớ mãi hai câu kết:

Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy!

Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương

Với một hình tượng rất giản đơn mà súc tích và thâm thuý vô cùng!

Hoàng Cao Khải cũng biên soạn Tuồng để tôn vinh lịch sử nước nhà. Ông là người rất ham thích Tuồng và tự mình biên soạn kịch bản cho mấy vở tuồng rồi tổ chức cho biểu diễn trong dinh của mình ỏ ấp Thái Hà để cho dân chúng vào xem. Về nội dung tư tưởng các kịch bản của ông có thể còn có những vấn đề cần được bàn cãi thêm, nhưng xét về mặt nghệ thuật sân khấu thì phải nói rằng Hoàng Cao Khải là người có công phát triển hình thức nghệ thuật Tuồng ra miền Bắc vì Tuồng cổ xưa kia chỉ lưu hành ở miền Trung Bộ. Hoàng Cao Khải đã du nhập nó ra miền Bắc, tất nhiên ông có phần cải biến thêm cho phù hợp với thị hiếu của dân Bắc. Do đó những vở Tuồng của ông được người ta gọi là “Tuống Bắc”. Hiện nay Viện Nghệ thuật sân khấu của ta đang xem đây là những di sản hiếm hoi cần được nghiên cứu để làm giàu thêm kho tàng Tuồng cổ nước nhà.

Cuốn Nam sử kính(gương sử Nam) của Hoàng Cao Khải là một cuốn sách chuyên luận bàn về sự can thiệp của các thế lực ngoại bang trên đất nước Việt Nam. Tài liệu gồm có 3 phần:

Phần đầu nói về sự can thiệp của Pháp vào Việt Nam và sự cai trị của Pháp; Phần thứ hai nói về sự đô hộ của Trung Quốc thời Bắc thuộc; và phần cuối nói về việc can thiệp của Việt Nam và nước Chân Lạp. Từ những thực tế lịch sử đó, tác giả muốn rút ra những bài học kinh nghiệm cho chính sách cai trị của các thế lực ngoại bang: Hễ các quan cai trị mà có công khai hoá quốc dân, đem lại lợi ích cho nhân dân thì sẽ được nhân dân ca tụng và tôn thờ; còn như đối với những bọn quan tham tàn,bạo ngược làm hại nhân dân thì sẽ bị nhân dân oán thù và nổi lên đánh đổ để giành lại quyền độc lập cho đất nước.

Trong phần nói về chính sách bảo hộ của Pháp tác giả tỏ vẻ tin tưởng vào nền văn minh của nước Pháp và thấy rằng dân ta cần phải dựa vào Pháp để theo đuổi công cuộc tiến hoá đất nước. Những quan điểm của tác gải ỏ đây có thể chưa được nhiều người đồng tình, nhưng ông đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành khiến cho ông Phan Châu Trinh sau khi được đọc cuốn sách ấy, trong một lá thứ từ Pháp   gửi về cho tác giả của nó có đoạn nhận xét sau:

… “Đọc xong dấy lên nhiều điều cảm xúc. Tuy việc lập ý dùng từ gãy gọn nhẹ nhàng không khiến cho người tuổi trẻ tân tiến hoan nghênh hết được, nhưng trong đó với sự nhìn nay nhớ xưa, xét việc đã qua biết điều sắp tới về tiền đồ thành bại mất còn của Tổ quốc chúng ta, một lời ca thán ba thần thở dài trước sự chỉ dẫn ra con đường mê lộ của người nước ta, chưa từng không lưu ý đến nhiều lần như vậy. Qua đó Trinh biết là Tướng công tuy cấp lưu, dũng thoái, vui thú điền viên, mắt thờ ơ nhưng lòng nóng hổi chưa từng có một ngày quên Tổ quốc” (5)…

Nhìn chung lại, tất cả những công trình biên soạn và sáng tác của Hoàng Cao Khải trên đây đều luôn luôn hướng về lịch sử nước nhà, một lòng ca ngợi lịch sử đất nuớc. Phải là một con người rất am hiểu về lịch sử nước nhà và có một lòng yêu nước mới có được sự quan tâm đặc biệt đến như thế! Cho dù trong nội dung tư tưởng của những công trình ấy, đây đó vẫn còn có những điều bị hạn chế do quan điểm nhận thức của tác giả lúc bấy giờ, người đọc vẫn thấy ở chúng toát lên một tinh thần tự tôn dân tộc rất rõ rệt, và chúng đều được tác giả biên soạn với một ý thức vì nước, vì dân rất rõ ràng. Chúng đều là những di sản đáng quý trong kho tàng văn hoá nước nhà, cần được bảo tồn và trân trọng cũng là lẽ đương nhiên vậy.

Chú thích

(1) Dựa vào câu chuyện “Đôi câu đối giữa hai địch thủ” của ChuTrọng Huyến, tuần báoVăn nghệ số Tết năm Đinh Hợi (2007), tr 38.

(2) Dẫn lại theo Nguyễn Huệ Chi,Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường văn, NXB Văn học, 1996, tr 31.

(3) Trích theo bài viết về Hoàng Cao Khải của Phạm Văn Ánh,Từ điển văn học , Nxb Thế giới, 2005.

(4) Những dòng ghi trong ngoặc kép là dịch nguyên văn chữ Hán lời nói của Hoàng Cao Khải trong bài tự đề tựa cho cuốnViệt sử yếu (tr 14, 15).

(5) Trích bài giới thiệu của Chương Thâu trong cuốnViệt sử yếu , Nxb Nghệ An, 2007, tr 14, 15.

Nguồn: Xưa & Nay, số 295, 11 - 2007, tr 19.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".