Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 19/05/2006 00:18 (GMT+7)

Hồ Chí Minh người đứng đầu Nhà nước trong giờ phút căng thẳng

Nhà nước Việt Nam mới thành lập đã bị đe doạ từ mọi bề bên trong và bên ngoài. Người Mỹ và người Anh tìm cách đưa Đông Dương vào phạm vị hành động của họ: chiến trường Trung Hoa - Miến Điện dưới quyền tướng Weydemeyer, còn Đông Nam Á thì thuộc quyền đô đốc Mounbatten. Khi chiến tranh kết thúc, tướng MacArthur, để rảnh tay tập trung vào Nhật Bản, đã chuyển Ấn Độ thuộc Hà Lan (Inđônêsia) vào quĩ đạo Đông Nam Á.

Sau ngày lễ lớn 2 tháng 9 năm 1945, ở Sài Gòn đã xảy ra vài vụ “đụng độ”, tướng Gracey đã vũ trang lại tù bình Pháp bị Nhật bắt để “vãn hồi trật tự”. Trong tháng 10, Trung đoàn 5 bộ binh thuộc địa và các bộ phận của Sư đoàn thiết giáp của tướng Leclerc đã vào Sài Gòn.

Những người lãnh đạo nước cộng hoà Việt Nam trẻ tuổi và toàn thể người Việt Nam, dù có chủ trương độc lập hay không, đều sợ Trung Hoa dân quốc kiểm soát đất nước và sợ ý đồ của chính phủ Pháp lập lại nền đô hộ.

Ngày 27-11-1945, trước Hội đồng chính phủ, ông Hồ tóm tắt tình hình:

“Ta cầm quyền trong lúc khó khăn: có người Tàu, người Tây, người Nhật, lại thêm nạn đói, các Bộ thiếu liên lạc, chính phủ thiếu kế hoạch chung. Vấn đề dùng người khó, tuy rằng ta rất rộng” (1).

Trước sự can thiệp của nước ngoài, chính phủ lâm thời nước Việt Nam DCCH phải hợp thức hoá quyền lực của mình, xác lập chính quyền trên cả nước và làm cho nó được công nhận. Trước mắt, phải tạo một bộ khung hành pháp và lập pháp. Từ 2-9-1945 đến 31-12-1946, Hồ Chí Minh đã ký 181 sắc lệnh bao gồm từ giáo dục đến tư pháp, quân đội, công an, thuế khoá, nông nghiệp và kiểm lâm, cũng như thương mại và công nghiệp (2). Bộ máy hành chính và cảnh sát thuộc địa được giữ lại sau khi đã loại trừ hết các phần tử thân Pháp và thân Nhật.

Thanh niên được vị chủ tịch đặc biệt coi trọng.

Hồ Chí Minh đã biết đến phong trào hướng đạo khi ông ở Anh, người ta còn nói ông có đọc Baden Powell và đã tham gia trại hướng đạo sinh.

Như vậy là phải khuyến khích phong trào hướng đạo sinh và nếu có thể thì hướng dẫn nó nếu không nói là lãnh đạo; ban lãnh đạo Việt Minh đã yêu cầu hội viên thanh niên ở thành phố thực hiện việc “thâm nhập” vào hướng đạo. Người sáng lập Hướng đạo Bắc Kỳ là Hoàng Đạo Thuý đã tham gia Đại hội quốc dân Tân Trào và trở thành giám đốc đầu tiên của Trường Võ bị của quân đội cộng hoà tháng 12-1945. Ngày 17-11-1945 ông Hồ tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập Hướng đạo sinh Việt Nam, và ngày 18-5-1946 ông chấp nhận làm chủ tịch danh dự Hướng đạo sinh (3). Đến thời điểm đó, Bộ Nội vụ đã thống kê có 60.000 hướng đạo sinh ở Việt Nam.

Ông Hồ đã lôi kéo ngay hoặc dần dần kéo theo cách mạng tầng lớp tư sản “có bằng cấp” mà người Việt Nam gọi chung là trí thức. Các luật sư, các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ, bị lôi kéo bởi không khí hào hứng xung quanh, đã được thuyết phục đây là lúc mình có thể phát huy hết khả năng phục vụ cho đất nước vừa giành được độc lập.

Hiện tượng đó không phải chỉ giới hạn ở Hà Nội, vì phong trào như vậy cũng phát triển ở phía nam, nơi hạng người hoạt động xã hội chuyên nghiệp phát triển nhất, được đào tạo từ nền giáo dục Pháp - Việt, thậm chí một số ít được đào tạo từ nền giáo dục Pháp và ở chính quốc. Một số xuất thân từ gia đình công giáo như các luật gia Đặng Thái Lung và Phạm Ngọc Thuần. Ở Sài Gòn một người lãnh đạo của ĐCS là hội viên Tam điểm, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, lấy vợ Pháp, tổ chức thanh niên Tiền Phong đi đầu trong cuộc cách mạng do những người cộng sản lãnh đạo. Thái độ đặc thù đó có lẽ xuất phát từ sự tồn tại của hai xu hướng trong ĐCS ở Nam Kỳ: Việt Minh và “Việt Minh mới”. Dù sao ĐCS phải tính đến những người Trốtkit, các giáo phía Cao Đài và Hoà Hảo tổ chức thành đảng chính trị (đảng Phục hưng quốc gia và đảng Dân chủ xã hội) và những tổ chức vũ trang. Các tổ chức này được sự ủng hộ của Nhật và kiểm soát một phần đất Nam Kỳ.

Ở miền Trung, thủ lĩnh hướng đạo Tạ Quang Bửu (4), vốn là thầy giáo dạy toán, đã chuyển hướng đạo sinh của mình thành “Thanh niên tiền tuyến” canh gác đường phố và giúp cho uỷ ban Việt Minh Huế giành chính quyền. Một bộ phận thanh niên, bao gồm cả con cái quan lại, gia nhập hàng ngũ, trong khi đó Phạm Khắc Hoè (5), đổng lý văn phòng của Bảo Đại, và thượng thư Bộ Hình của chính quyền Nam triều, Bùi Bằng Đoàn, đã đi theo nhà nho cải cách Huỳnh Thúc Kháng để đứng về phía chính phủ cộng hoà. Nhằm mục đích mở rộng tối đa sự nhất trí, ông Hồ còn có một cử chỉ nữa để bày tỏ sự gắn bó của Nhà nước mới với quá khứ dân tộc. Ông cử Lê Văn Hiến vào Huế để đến chào cung kính và trợ cấp cho hai bà quả phụ của vua Thành Thái và Duy Tân (6).

Sắc lệnh đầu tiên ông Hồ ký là bổ nhiệm công dân Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại đã thoái vị ngày 25 tháng 8, làm “cố vấn tối cao” của chính phủ lâm thời nước Việt Nam DCCH. Nhà vua cũ đã nhận lời ra Hà Nội chủ trì Hội đồng chính phủ, và đã bị tính cách của Hồ Chí Minh chinh phục […].

Chúng ta không biết sự lựa chọn này của ông Hồ có được sự tán đồng của các đồng chí hay không, nhưng chắc chắn là sau khi ông thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà giam Hà Nội mà người Pháp đã bắt giữ, ông đã bị chỉ trích gay gắt. Quả thật ông Diệm đã tỏ ra rất nghiêm khắc trong vụ đàn áp chống cộng năm 1930 và 1931 ở Bình Thuận. Người cộng sản Bùi Lâm đã bước vào phòng làm việc của ông Hồ hỏi rằng ông có biết nếu ông rơi vào tay ông quan này, kẻ thù của những người cộng sản, thì ông ta sẽ không ngần ngại hành quyết ngay. Trong trường hợp ông Diệm, ông Hồ giải thích sự khoan dung của mình bằng cách nhắc lại thái độ của thân sinh ông Diệm, viên đại thần Ngô Đình Khả, đã từ chối không chịu lưu đày vua Thành Thái theo lệnh các quan “bảo hộ”.

Hồ Chí Minh còn quay sang phía các đảng quốc gia. Trước hết ông mời Nguyễn Hải Thần của Đồng Minh hội tham gia chính phủ lâm thời rồi ông mở rộng bằng việc mời Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Trường tam của Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng 11-1945 ông còn thuyết phục các thủ lĩnh này ký một bản cam kết gọi là “Tinh thần đoàn kết” (7). Những người quốc gia đồng ý không công kích chính phủ trên báo chí, đoàn kết cùng chống Pháp và ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. đối với phái quốc gia, ông Hồ bị đặt vào hoàn cảnh rất tế nhị, vì những đối thủ đó của ông đã trở về theo chân quân đội Trung Hoa. Biết mình được sự ủng hộ của Quốc dân đảng, nên họ không ngừng gây áp lực với chính phủ lâm thời Việt Nam, những người quốc gia đòi hỏi được giao những bộ chủ chốt trong chính phủ.

Cuối tháng 12, Chính phủ của ông Hồ bước thêm một bước bằng việc dành 50 ghế cho QDĐ và 20 ghế cho ĐMH trong Quốc hội vừa được bầu vào tháng 1-1946, các đại biểu quốc gia được quyền tham gia Quốc hội không qua bầu cử. Ông Hồ còn củng cố vị trí của ĐCS và các đồng minh như đảng Dân chủ và đảng Xã hội, sản phẩm chính trị tài tình của ĐCS nhằm tập hợp tầng lớp “trí thức”, sử dụng tài năng và sự hiểu biết của các nhà “kỹ thuật” và giữ vững “mặt trận văn hoá”.

Tháng 3-1946, Nguyễn Hải Thần trở thành phó chủ tịch chính phủ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng Ngoại giao và Vũ Hồng Khanh đặc phái viên chính phủ. Tất nhiên ông Hồ không để cho phía quốc gia giữ những bộ nhạy cảm như Nội vụ và Quốc phòng dù họ có đòi, và ở Bộ Ngoại giao, Nguyễn Tường Tam không hề chủ động cũng như không mở miệng vì ông Hồ đã một mình giữ “vai trò chính”. Điều đó không tránh khỏi mỗi lần bổ nhiệm, nhất là với Nguyễn Hải Thần mà ông Hồ đã dành cho một biệt thự đẹp và đưa chiếc xe của mình cho ông ta sử dụng, đã gây nên sự phản đối trong các đồng chí của Hồ Chí Minh, theo lời kể của đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Để ngăn chặn kẻ thù thậm chí là những người phản đối, ông Hồ đã nói trực tiếp với nhân dân. Ông đã nói với trẻ em và thanh niên, nói chuyện với phụ nữ, một lần khác với phụ lão, lại còn với cộng đồng tôn giáo, ông họp báo và nói với các nhà báo trong nước cũng như nước ngoài. Ông có những cuộc hội đàm riêng với nhà báo nước ngoài và Pháp, cụ thể là với Jean-Michel Hertrich và Desinges.

Không những ông kêu gọi người Việt Nam đoàn kết phục vụ đất nước, mà ông còn theo nguyên tắc là không nên theo kiểu vua chúa và quan lại xưa mang tác phong quan cách xa rời nhân dân. Ông Hồ tìm mọi cơ hội để hoà vào quần chúng nhằm xoá bỏ khoảng cách giữa người lãnh đạo với dân chúng. Ví dụ ngày 5 tháng 1-1946, ông là người “không theo tôn giáo nào” lại đi đến hai ngôi chùa lớn nhất Hà Nội, gặp các nhà sư và Phật tử, nói chuyện với họ, và cùng ăn chay trong một ngôi chùa. Cũng trong ngày hôm đó, ông ra lời “Kêu gọi công dân đi bầu cử” để bầu ra Quốc hội.

Trước ngày 14 tháng 1, ông đến thăm đức cha Lê Hữu Từ, giám mục xứ Phát Diệm, mà ông đã cử làm cố vấn chính phủ và gọi là “bạn của tôi”. Ông đề cao tình đoàn kết của toàn dân Việt Nam để “chống ngoại xâm và trừ nạn đói” bằng cách nhắc lại câu châm ngôn Kitô giáo “Tam vị nhất thể” và câu của nhà Phật “Vạn chúng nhất tâm”. Ông còn nhắc lại trước một trăm linh mục của giáo xứ và dân chúng Phát Diệm tập hợp nhân dịp chủ tịch đến thăm, rằng Chúa đã dạy hãy thương yêu đồng loại, còn Phật thì nói hãy thương cảm những người khổ đau (8).

Khi rời Phát Diệm ông đã để Phùng Thế Tài ở lại chỉ huy trung đoàn, trung đoàn của quân chính qui đầu tiên của quân đội cách mạng, để bảo vệ anh ninh cho giáo phận, nhưng tất nhiên cũng có nghĩa rằng chỉ có một Nhà nước, nước Việt Nam DCCH và bên trong nó, cộng đồng công giáo, cũng như các cộng đồng tôn giáo hay dân tộc khác, không được hưởng một qui chế gì đặc biệt hơn (9).

Lời kêu gọi đoàn kết dân tộc và bảo vệ nền độc lập đã có tiếng vang trong đa số người công giáo, trước hết là những giáo sắc Việt Nam, hồi đó có bốn vị giám mục là người bản xứ với 1.500 linh mục quản hạt 1,6 triệu giáo dân. Do đó một vị thừa sai Pháp đã chua chát nhận xét rằng “họ” muốn độc lập tôn giáo sau độc lập chính trị, và vị thừa sai viết tiếp: “Thật đau buồn khi thấy một số chủng sinh trẻ của chúng ta xếp hàng tư đi suốt đường phố Hà Nội, giơ nắm tay sau lá cờ đỏ sao vàng”. Vị linh mục đó không hiểu rằng người công giáo Việt Nam đang nắm lấy cơ hội này để tách khỏi sự dính líu của họ đối với Kitô giáo của nền đô hộ thuộc địa Pháp, mà một số vị thừa sai Pháp đã thực hiện tâm nguyện và góp phần xây dựng cùng với sự hợp tác của giáo dân bản xứ (10).

Để có thể tìm chỗ lập căn cứ và sự giúp đỡ của các dân tộc thiểu số miền núi, Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò chủ chốt của các tộc thiểu số và trong thành phần của Nhà nước trẻ tuổi họ phải có vị trí đặc biệt. Tháng 11-1945, ông tiếp đoàn đại biểu 5 dân tộc ở Việt Bắc và kêu gọi họ đoàn kết, tăng gia sản xuất và đấu tranh chống ngoại xâm. Ngày 3-12-1945 tại Nhà hát lớn Hà Nội, ông Hồ khai mạc hội nghị đại biểu của 20 dân tộc thiểu số, ông lại nhắc đến vấn đề đoàn kết hơn nữa, tăng gia sinh sản và ủng hộ Chính phủ lâm thời để kháng chiến và cứu đói, nhưng ông cũng khẳng định mạnh mẽ quyền dân tộc bình đẳng với người Việt chiếm đa số, và quyết tâm của chính phủ giúp cho họ phát triển kinh tế và giáo dục.

Tháng 1-1946 ông cụ thể hoá đường lối đoàn kết bằng cách cho bầu ông Vương Chí Thành, “vua” Mông ở huyện biên giới Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) vào Quốc hội; trước đó ông đã mời ông Vương về Hà Nội và nhận làm em nuôi với họ là Hồ Chí Thành. Về sau, vị thủ lĩnh huyện đó trở thành chủ tịch Ủy ban hành chính và kháng chiến Đồng Văn và ông Hồ đã gửi cho một thanh kiếm, một chiếc áo trấn thủ và huy hiệu để cụ thể hoá sự liên minh.

Ông Hồ không quên các dân tộc thiểu số trên cao nguyên miền Trung, mà quân Pháp đang bắt đầu chinh phục lại. Ngày 19-4-1946 ông gửi đến Đại hội họp ở Pleiku: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xêđăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt” ông kêu gọi mọi người góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập (11).

Nhưng độc lập để làm gì và tự do có ý nghĩa gì khi dân chúng đang chết đói, vị chủ tịch nói như vậy. Chấm dứt nạn đói là công việc ông luôn lo toan, để thực hiện việc đó, ông đã tổ chức nhiều chiến dịch tập thể như thu hồi lương thực tích trữ từ trước ngày 9 tháng 3, lạc quyên, vận chuyển lương thực từ miền Trung ra. Trong khi ông Hồ đề phòng người Pháp từ xa vì Pháp đã bắt đầu chiếm lại Nam Kỳ, ông vẫn chấp nhận để người Pháp giao lại số lương thực của Nhật tích trữ ở miền Nam.

Tháng 9-1945, bằng cách riêng của mình, ông Hồ kêu gọi toàn thể quốc dân mỗi tuần nhịn ăn một bữa để lấy gạo giúp đồng bào đói (12). Tại trụ sở Bắc Bộ phủ, trong dinh thống sứ Bắc Kỳ cũ, ông Hồ áp dụng chế độ ăn uống khắc khổ “cơm đủ hai bát lưng, cá chỉ vài khứa mỏng, canh trong vắt”.

Hồ Chí Minh luôn luôn ở mũi nhọn, đưa ra nhiều sáng kiến và hành động không ngừng nhằm đối phó với những khó khăn trước mắt hay dự tính trước. Mặc dầu ý chí thống nhất và nỗ lực tập hợp đồng bào, ông vẫn chưa đạt được sự hoàn toàn nhất trí hay “đại đoàn kết”. Trong những người theo ông, đường lối đoàn kết dân tộc không phải ai cũng hiểu và không được tất cả chấp nhận, việc thả Ngô Đình Diệm là một ví dụ, nhưng còn nhiều vụ khác.

Tất cả những vụ tranh chấp hay xung đột không phải đều do các nhóm quốc gia hay các “phần tử không kiểm soát được” gây nên; ngay bên trong Việt Minh, lòng căm thù người Pháp thường bộc lộ đôi khi đưa đến những vụ đụng độ có người chết và bị thương.

Càng đi xa thủ đô, tình hình càng rối ren, và đôi khi chính quyền địa phương, tuy do Việt Minh kiểm soát, lại không chấp hành những chỉ thị của chính phủ hay giải thích theo cách riêng. Những vụ sát hại những kẻ bị coi là phản bội xảy ra hầu như khắp nơi, một mối hận thù dồn nén từ lâu đời đã bùng lên, không thể tính được số nạn nhân.

Những cuộc chiến đấu nổ ra giữa Việt Minh với đối thủ và một cuộc nội chiến đã bắt đầu cùng với sự thâm nhập của quân đội Trung Hoa vào Bắc Bộ. Từ tháng 9-1945, ở phía tây Bắc Bộ, lực lượng vũ trang VNQDĐ chiếm Lào Cai và treo cờ của chúng sau khi đã hạ cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, đã trở thành quốc kỳ của nước Việt Nam DCCH. Phía đông, tại Móng Cái và Lạng Sơn, quân ĐMH cũng làm như vậy nhưng chúng bị đuổi khỏi Lang Sơn sau đó do quân Trung Quốc chiếm giữ. Phe đối lập quốc gia không chịu hạ vũ khí, ngay cả khi chúng đã có mặt trong chính phủ và ngồi ở Quốc hội. Báo chí của chúng không ngừng đả kích Chính phủ, nhất là sau khi ông Hồ ký hiệp định 6-3-1946, cho phép quân Pháp đổ bộ vào Bắc Bộ.

Từ ngày 6 tháng 3 quân Pháp đã có mặt, bọn quốc gia tiến hành nhiều vụ khiêu khích, đi đến bắt cóc và ám sát, cụ thể là sau khi ông Hồ đi Pháp từ tháng 4. Chúng đã tạo cớ cho sự lên án phá hoại hiệp định Pháp - Việt 6 tháng 3 và còn có âm mưu gây đảo chính. Chính phủ đã tiến hành hoạt động cảnh sát quy mô lớn chống VNQDĐ ngày 11-7-1946 sau khi quân Trung Quốc đã rút khỏi Việt Nam vào tháng 6. Cuộc thanh trừng đó diễn ra ở Hà Nội với nhiều cuộc chiến đôi khi ác liệt, đã đuổi VNQDĐ khỏi các vị trí ở các tỉnh. Tuy nhiên VNQDĐ và ĐMH vẫn được duy trì với tư cách là chính đảng nhưng đã được thanh lọc, từ nay chỉ tập hợp những người đi theo đường lối của Hồ Chí Minh. Những người khác thì bị cầm tù hay chạy sang biên giới Trung Quốc khi các đơn vị cuối cùng của Trung Quốc rút khỏi đất nước.

Ở Nam Bộ tháng 9-1945, hàng nghìn quân Hoà Hảo vượt sông Hậu Giang chiếm thành phố Cần Thơ, nhưng sau đó đã bị tự vệ Việt Minh đẩy lui. Cuộc đảo chính đó đã kéo theo những vụ giết hại lẫn nhau và đưa đến vụ sát hại giáo chủ Huỳnh Phú Sổ năm 1947 khiến cho tình hình không thể hàn gắn. Từ 1946, những người Cao Đài, ít ra là phái đông nhất ở Tây Ninh, rồi năm 1947, những người Hoà Hảo liên kết với quân Pháp chống Việt Minh. Mọi cố gằng của Hồ Chí Minh để liên kết tín đồ các giáo phái đó vào trong chính phủ không hoàn toàn kết quả hay phần lớn đã bị phá vỡ (15).

Cùng lúc đó, một bộ phận lớn Khmer Krom (người Khmer ở Nam Bộ) đi theo quân Pháp tàn sát người Việt dưới danh nghĩa chống Việt Minh.

Trên cao nguyên miền Trung, quân Pháp cũng lập những đơn vị vũ trang cho người dân tộc thiểu số. Như vậy chính sách đoàn kết các dân tộc mà ông Hồ kêu gọi cũng bị hạn chế ở miền Nam, miền Trung, nhưng cả ở Tây - Bắc tại vùng đất người Thái.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến ý chí đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam và mọi tầng lớp xã hội. Ông hoàn toàn ý thức về tính thống nhất của dân tộc, về lịch sử đấu tranh lâu dài, những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, những chia rẽ về chính trị đẻ ra từ sự thách thức của việc giành chính quyền đã khuyến khích những thế lực ly khai.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính chất đặc biệt của tình hình đất nước để minh chứng cho sự thống nhất chỉ đạo, khi ông nói với các nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946. Ông nói về thực chất trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin tưởng, tự do tổ chức, nhưng “vì hoàn cảnh và trách nhiệm [phải gánh vác]” “nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài” (16). Đọc lời tuyên bố đó, cần phải phân biệt rõ sự việc, phải tính đến một tình hình đặc biệt, nhưng có nên cho đó như là biểu hiện của một thứ chủ nghĩa toàn trị tiềm ẩn hay chỉ là một thứ chủ nghĩa Cộng hoà (Jacobinisme) thực sự?

Bối cảnh trực tiếp sau chiến tranh cũng tạo cơ hội cho ý muốn thống nhất, cũng như những xu hướng ly khai và vô chính phủ. Loại tình hình đó luôn luôn khuyến khích sự can thiệp của nước ngoài, và trong năm 1945-1946, Hồ Chí Minh phải dồn hết tâm sức để đối phó với nó. Theo thứ tự thời gian, các tham vọng của Trung Quốc và quân đội của chính phủ quốc dân đảng, rồi sự quay trở lại của quân Pháp nhằm mục đích “thiết lập lại chủ quyền của nước Pháp” ở Đông Dương đã thu hút mọi nỗ lực của vị Chủ tịch nước Cộng hoà còn rất mong manh bên trong.

________________

* Pierre Brocheux, Ho Chi Minh - du révolutionnaire à l’icône, Payot, Paris, 2003.

1. Biên niên tiểu sử, T.3 (1945-1946) NXB CTQG, Hà Nội, 1993, tr. 76-77.

2. Hồ Chí Minh toàn tập, T.IV, NXB CTQG, Hà Nội, 2002, tr 501-514.

3. Hồi ký của Hoàng Đạo Thuý trên Xưa & Nay, số 27/1996, tr. 12. Chỗ này tác giả nhầm, thực ra là ngày 30-5. Lê Duy Thước cũng viết trên Xưa & Nay, số 39/1997.

4. Tạ Quang Bửu, nhà trí thức yêu nước và cách mạng, Hà Nội, tr. 255-271 và 287-297.

5. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, NXB Thuận Hoá, Huế, 1987.

6. Lê Văn hiến, Chuyến công cán đặc biệt, NXB Đà Nẵng, 1986, tr 36-37

7. BNTS, T.3, tr. 74-75.

8. Báo Cứu quốc, số 141-142, 14-15/1/1946.

9. Phùng Thế Tài, Bác Hồ, những kỷ niệm không quên, NXB QĐND, Hà Nội, 2001, tr 117-120.

10. Các giám ngục Jean-Baptiste Tòng, Hồ Ngọc Can, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ đã gửi thư ngày 23-9-1945 cho Giáo hoàng, rồi một thư khác cho tín hữu toàn thế giới và nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân Anh, ngày 4-11-1945.

11. Toàn tập, T.IV, tr 217-218.

12. BNTS, T.3, tr. 25.

13. Cuối cùng chỉ có giáo phái của ông Cao Triều Phát ở Bạc Liêu là liên minh với Việt Minh.

14. Toàn tập, T. IV, tr 161-162.

Nguồn: Xưa & Nay, số 243, 9/2005

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.