Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 11/04/2009 00:07 (GMT+7)

Hình thức chơi chữ trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh

1. Chơi chữ là một biện pháp tu từ được thể hiện bằng cách sử dụng những phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp dưới nhiều hình thức đa dạng, như dùng yếu tố đồng âm, đồng nghĩa, văn tự, các từ ngữ cùng trường, các hình thức nói lái… trong những văn cảnh thích hợp để tạo ra cách hiểu bất ngờ và thú vị. Chơi chữ là một trong những đặc điểm của thơ ca truyền thống. Cũng sử dụng biện pháp chơi chữ như thơ ca truyền thống nhưng nét riêng của thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh (TDGNT) là bên cạnh việc dùng chữ toàn dân, tác giả dân gian còn sử dụng từ địa phương (TĐP), lời ăn tiếng nói quen thuộc của mình vào hình thức chơi chữ với một số lượng từ ngữ phong phú, tổ chức sắp xếp chúng theo cách thức nhất định. Đó như là một trong những lựa chọn, một tín hiệu góp phần tạo nên nét riêng trong dấu ấn chung về phong cách TDGNT. TDGNT - đối tượng khảo sát của bài viết này bao gồm các tác phẩm: Hát giặm Nghệ Tĩnh, Hát phường vải, Vè Nghệ Tĩnh, Ca dao Nghệ Tĩnh(Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao sưu tầm).

2. Từ xưa người Nghệ được tiếng là hay chữ nghĩa. Một trong những nét nổi bật về biểu hiện của đặc điểm đó, không chỉ với các ông đồ mà cả với bình dân khắp mọi vùng đó là chơi chữ. Đặc điểm ấy cũng được thể hiện rõ trong các sáng tác mang tính truyền miệng của người lao động, đó là TDGNT. Chỉ nói về phương tiện được sử dụng, kiểu lựa chọn từ ngữ để chơi chữ trong TDGNT cũng rất phong phú, đa dạng. Tuy là sáng tác mang tính địa phương các vùng khác, từ ngữ được sử dụng trong TDGNT chủ yếu là từ toàn dân (TTD) nên trong các hình thức chơi chữ, ngoài việc dùng TĐP quen thuộc, người Nghệ Tĩnh cũng có hình thức chơi chữ bằng TTD.

2.1 Một trong những hình thức chơi chữ mà ta gặp khá nhiều trong các tác phẩm TDGNT đó là lối đố chữ đựa theo cấu tạo chữ Hán:

- Đấm một đấm hai tay ôm quoàng

Thuyền chèo lên núi, thiếp hỏi chàng chữ chĩ?

- Lại đây anh hỏi nhỏ nì

Ấy là chữ mật một khi rõ ràng

(Hát phường vải)

Chữ mật trong tiếng Hán được cấu tạo từ ba chữ: miên, tất, sơn. Ở đây, cô gái đã dựa vào hình dáng và ý nghĩa của các bộ mà tạo thành câu đố. Nhiều khi tác giả dân gian còn dựa vào cả những tri thức liên quan đến nội dung tác phẩm văn học nổi tiếng Truyện Kiều dể tạo ra tình huống đố chữ Hán. Người đáp có thể thông thạo chữ Hán nhưng nếu không am hiểu Truyện Kiều thì rất khó giải được câu đố. Trường hợp sau đây trong Hát phường vảilà một dạng rất phổ biến trong cách đố chữ của người Nghệ:

Truyện Kiều anh giảng đã tài

Đố anh giảng được câu này anh ơi:

Biết thân đến bước lạc loài

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Chàng trai đáp lại:

Tình chung nào phải ai xa

Chính chàng Kim Trọng vào ra sớm chiều

Nếu như câu đố cho thấy cô gái là người vừa giỏi chữ Hán vừa thông hiểu Truyện Kiều thì cách trả lời của chàng trai cũng tỏ rõ anh là người không hề thua kém khi đã rất nhanh ý đáp ngay rằng đó là Kim Trọng. Bởi chữ chunglà do chữ Kimvà chữ Trọnghợp thành. Hình thức đố chữ của tác giả dân gian xứ Nghệ khá linh hoạt và đa dạng. Có khi tác giả dân gian vận dụng cả hai cách chơi chữ, vừa chiết tự vừa ngụ ý:

Cố nhân hỏi khách hồng lâu

Chữ thiên nay đã trồi (nhô) đầu hay chưa

Chữ thiênnghĩa là “trời”, nếu nét “phẩy” viết nhô cao trên nét “ngang” thì thành chữ “phu” nghĩa là “chồng”. Chàng trai muốn qua hình thức đố chữ mà ngầm hỏi một điều tế nhị khó nói trực tiếp là: “em có chồng chưa”.

Thông minh, tế nhị nhưng cũng rất thẳng thắn và hãnh diện, cô gái trả lời:

Hồng lâu thưa khách chương đài

Chữ thiên sổ dọc đá dài phân minh

Một chỗ khác, cũng là lối dựa vào cấu tạo chữ Hán để đối - đáp ngụ ý:

- Bấy lâu em vắng đi đâu

Bây giờ thiên đã mọc đầu ra chưa?

- Từ ngày thiếp vắng mặt chàng

Bây giờ liễu đã có ngang ra rồi

Lời của chàng trai ngụ ý cũng là để hỏi “em đã có chồng chưa”, tương tự như câu trên. Cô gái trả lời “liễu đã có ngang” cũng là muốn nói “em đã có con”, bởi chữ liễutrong tiếng Hán có nghĩa là “xong, kết thúc”, nếu thêm nét ngang thì thành chữ tửcó nghĩa là “con”.

Lối chơi chữ bằng hình thức đố chữ Hán kết hợp với ngụ ý không chỉ được dùng phổ biến trong hát đối đáp nam nữ mà có khi còn trở thành phương tiện được dùng cả trong tuyên truyền cách mạng:

Trăng xưa dọi tỏ lòng người

Treo gương nhật ngyệtt cho đời soi chung

(Ca dao Nghệ Tĩnh)

Đọc câu ca dao, qua ngữ nghĩa nói trên bề mặt văn bản, nghe chừng chỉ là lời bày tỏ về sự thuỷ chung trong sáng của lòng người nhưng ngẫm kĩ mới thấy ẩn đằng sau đó là lời nhắn nhủ thuỷ chung, một lòng sắt son với Bác Hồ, với cách mạng. “Trăng xưa” là nói tới chữ “cổ nguyệt”, cổghép với nguyệttạo thành chữ Hồ; “lòng người” là ngầm nói tới chữ “sĩ” và “tâm”, ghép với chữ tâmthành chữ Chí, còn chữ nhật, ghép với chữ nguyệttạo thành chữ Minh.Thông qua phương tiện chơi chữ, tác giả dân gian vừa ca ngợi tấm gương vĩ đại của Người vừa nhắn nhủ mọi người một lòng đi theo cách mạng, đi theo Bác Hồ.

2.2 Cũng là hình thức chơi chữ khai thác cấu tạo và nghĩa chữ Hán, tác giả dân gian Nghệ Tĩnh còn có một cách thức khác là sử dụng các cặp từ ngữ sóng đôi nhau, giữa Hán Việt với thuần Việt sao cho phải đồng nghĩa trong một dòng thơ. Ở câu đố cũng như câu đáp, về nội dung ngữ nghĩa trên bề mặt, các cặp từ ngữ sóng đôi đó phải tạo được sự phù hợp mang tính logic:

- Mẹ thương conqua cầu Ái Tử

Gái trông chồngđứng núi Vọng Phu

Chàng mà đối được thiếp du (dâu) mẹ thầy

- Lúa ba trăngcấy hồ bán nguyệt

Con hươu saoăn lá hoàng tinh

Anh đà đối được em thuận tình em nha (nhé)

(Hát phường vải)

Ta bắt gặp kiểu chơi chữ này rất nhiều trong TDGNT, nhất là trong thể loại hát phường vải, như các ví dụ sau đây:

- Con kiến đấtleo cây thục địa

Con ngựa trờiăn cỏ chỉ thiên

Chàng mà đối được gái thuyền quyên theo về

- Con rắnmà lăn qua

Con mà mổ bông

Chàng đà đối được, thiếp phải về hôm nay

- Cây tam thấttrồng ba bảychậu

Pháo cửu trùngđốt chín nghìnphong

Chàng mà đối được thiếp theo không chàng về

- Núi Ngũ Hổvẫy vùng năm khái

Gió bốn mùađúc lại tứ phương

Anh đà đối được thì lường tính sao?

Hình thức đố chữ, đố nghĩa là một kiểu chơi chữ được dùng rất phổ biến trong đối đáp nam - nữ trong Hát phương vải.Ngoài cách thức sử dụng phổ biến TTD như trên, tác giả dân gian xứ Nghệ còn linh hoạt sử dụng phối hợp hai loại TTD và TĐP, hoặc trong ngữ cảnh nhất định có thể chỉ dùng một loại phương tiện quen thuộc là TĐP để khai thác vào mục đích chơi chữ. Chẳng hạn, trong hình thức hỏi đố ở câu Hát phương vảisau đây, tác giả dân gian đã dựa vào nghĩa tách rời của từng yếu tố cấu tạo trong từ ghép, sử dụng phối hợp hai loại từ ngữ để chiết tự, chia tách các yếu tố thành một trường liên tưởng gồm các từ cùng chỉ bộ phận cơ thể, tạo nên sự bất ngờ thú vị. Cụ thể, tác giả dựa vào nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ mặt trời, vờ xem “mặt” như là bộ phận “cơ thể” của trời để hỏi - đố về một từ khác (“trốc” - đầu) theo kiểu kết hợp tương tự:

Em muốn hỏi bạn một lời

Mặttrời ở đó trốctrời ở mô?

2.3 Một kiểu chơi chữ khác trong TDGNT là khai thác yếu tố đồng âm, bằng cách sử dụng yếu tố địa phương đối lập với nhau hoặc với yếu tố toàn dân khác trong dòng để nói tới yếu tố thứ hai nào đó ngược nghĩa với yếu tố ấy. Kiểu như ví dụ sau trong Hát phường vải:

Cây đứnggiữa đất trời gọi cây độ(đỗ)

Cây đứngmột chộ (chỗ) nói cây trôi

Chàng mà đối được chàng lôi em về?

Trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, độ(cây độ) là danh từ chỉ cây đậu, nhưng độcòn là động từ tương ứng nghĩa với đậu,chỉ trạng thái đứng yên một chỗ. Cây trôivừa có thể hiểu là “cây bị trôi” lại vừa được dùng để chỉ một loại cây mà ở Nghệ Tĩnh có vùng gọi là “cây trôi’ nhưng có nơi lại gọi là “cây xoài” hoặc “cây quéo”.

Cách chơi chữ trong mấy câu hát phường vảisau là cùng một kiểu như trên:

- Con ngựa chạygiữa đàng họi là con ngựa cất

Con cá bántrửa chợ gọi là con cá thu

Chàng mà đối được thiếp mần du mẹ thầy. 1 ưng thutheo tiếng Nghệ Tĩnh còn lá “giấu”; lạilà “di chuyển ngược chiều với di chuyển trước đó”, lạitrong rắn lạitheo tiếng địa phương là chỉ con rắn ráo; leolà “leo trèo”, leo trong cá leo, theo tiếng Nghệ Tĩnh là chỉ “cá nheo” trong ngôn ngữ toàn dân.

2.4 Gần với kiểu chơi chữ đồng âm, khai thác các yếu tố ngược nghĩa như trên, tác giả dân gian Nghệ Tĩnh còn dùng hình thức phối hợp giữa từ đồng âm với đồng nghĩa. Mục đích của cách chơi chữ này, ngoài việc thể hiện nội dung ngữ nghĩa theo mạch cảm xúc, các từ ngữ được lựa chọn còn phải tập hợp tạo thành những trường nghĩa chỉ sự vật nhất định. Kiểu như:

- Rú, rừng, núi, động, đèo, truông

Ngàn xanhcách trở mây luồngcũng theo.

- Bể, hồ, khe, hói, lạch, rào

Sông su nước lội ước aokết nguyền.

- Giả đò neochiếc thuyềntình

Bạn mối lái(lưới) tơ mànhgấp ghe(hát phường vải)

Ở trên, một loạit từ được tập hợp, nghĩa liên quan đến núi rừng, trong đó có các từ địa phương với nghĩa tương tự; loạt thứ hai là tập hợp các từ chỉ về sông hồ, trong đó bể(biển) hói(chỗ nước chảy ra sông, biển trũng sâu, lõm vào ở đất liền), rào(sông nhỏ); loạt thứ ba là tập hợp các từ cùng nằm trong một trường chỉ phương tiện vận chuyển trên sông nước và đánh bắt cá.

Tương tự, tập hợp các từ sau đây lại chỉ về con vật

- Sao chàng vội cáovề mau

Hay là ngậnnghĩ mấy câu đã chồn?

- Ngồi ri trơ tráothêm lâu

Gọi rằng kháchđịa vài câi câu biết

(hát phường vải)

Cáodùng trong phương ngữ là động từ có nghĩa “lui, về”, đồng âm với cáolà danh từ có nghĩa gọi tên một loại thú ăn thịt; ngậnlà biến âm của ngẫmtrong “ngẫm nghĩ”, đồng âm với ngậncũng trong phương ngữ, có nghĩa chỉ một loài “cầy hương”; chồntrong tiếng toàn dân là “mỏi” còn tiếng Nghệ Tĩnh là con “cầy”. Tương tự, tráotrong phương ngữ là chỉ “chim sáo” đi với khách(chim khách) và “gà” thành một tập hợp các từ chỉ “chim gà”.

2.5 Ngoài ra, trong các sáng tác TDGNT còn kiểu chơi chữ bằng hình thức nói lái, kiểu như trong các câu đối – đáp sau:

- Anh bứt cỏ ngựangồi đầu cửa ngọ(ngõ)

Kẻ cắn con nây(nai) ngồi cội (gốc) cây non

Chàng mà đối được thiếp trao chàng một quan

- Con cá đốinằm trên cối đá

Con mèo cụtnằm tận mút kèo

Trai thanh tân đà đối đặng, tiền cheo mô mà?

(Hát phường vải)

Kiểu nói lái này thực hiện bằng cách hoán vị vần giữa các âm tiết với nhau, âm đầu, thanh điệu thường giữ nguyên vị trí. Trong ví dụ trên, do dùng các yếu tố địa phương nên mới nói lái được đúng âm cỏ ngựacây non. Thường thường kiểu nói lái của người Bắc Bộ không theo hình thức như vậy. Kiểu nói lái này chủ yếu được dùng trong Hát phường vảinhưng TĐP được dùng trong hình thức này không nhiều bằng TTD.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh, Phan Mậu Cảnh, Nguyễn Hoài Nguyên (1999), Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Nxb Văn hoá Thông tin.

2. Hoàng Trọng Canh (1995), Một vài nhận xét bước đầu về âm và nghĩa từ địa phương Nghệ Tĩnh, Ngôn ngữ số 1, tr. 31 - 46.

3. Hoàng Trọng Canh (2002), Sự khác biệt về ngữ nghĩa của một số kiểu từ địa phương Nghệ Tĩnh so với từ toàn dân,Ngôn ngữ số 2, tr 51 - 58.

4. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt,Nxb ĐHQG Hà Nội.

5. Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội,Nxb Văn hoá Thông tin.

6. Nguyễn Quang Hồng (1981), Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng trong ngôn ngữ văn hoá tiếng Việttrong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về từ ngữ,Nxb KHXH, tr. 313 - 320.

7. Nguyễn Văn Khang (2008), Mối quan hệ giữa ngôn ngữ xã hội với phương ngữ học trong tiếp cận phương ngữ với tư cách là đối tượng nghiên cứu,Ngôn ngữ số 1, tr 1 - 11.

8. R. Jakobson (1998), Thơ của ngữ pháp và ngữ pháp của thơ, Văn học số 12, tr 67 - 72.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.