Hiệp định Pháp - Việt 6 tháng ba 1946
Tác giả đưa ra một số nhận định mới dựa theo những tài liệu mới sưu tầm được, bao gồm ba luận đề:
- Muốn hiểu Hiệp định 6 tháng 3 phải bắt đầu từ chiến dịch Bentré (kế hoạch tái chiếm bắc Đông Dương của lực lượng Pháp).
- Khi phát động chiến dịch Bentré cuối tháng 2 - 1946, nước Pháp đã bị Trung Quốc gài bẫy.
- Hiệp định 6 tháng 3 đã bị Trung Quốc, người tạm thời cầm đầu trò chơi, áp đặt cho hai đối phương kia.
Với hiệp định Pháp - Việt ký ở Hà Nội chiều 6 tháng 3 - 1946, nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, cam kết tổ chức trưng cầu dân ý về việc thống nhất Nam Kỳ vào lãnh thổ quốc gia, và đổi lại Pháp được đem 15.000 quân vào miền Bắc Việt Nam trong thời hạn 5 năm. Hiệp định này do uỷ viên Cộng hoà Pháp Jean Sainteny và chủ tịch nước Việt Nam DCCH và phó chủ tịch Vũ Hồng Khanh cùng ký, đã có tác dụng đẩy lùi cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chậm lại 9 tháng. Hiệp định có tầm quan trọng đối với lịch sử quan hệ Pháp - Việt, Pháp - Hoa và Hoa - Việt. Hiệp định đã được trình bày, ngay cả về chi tiết, trong hầu hết các tài liệu viết về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Tuy nhiên những sự kiện đưa tới hiệp định đó chưa được nghiên cứu tường tận. Chúng tôi vừa được biết qua công trình của nhà sử học Trung Quốc Lâm Hoa, một đóng góp quan trọng để viết về Hiệp định 6 tháng ba, quan trọng chủ yếu vì nó khai thác nguồn tư liệu Trung Hoa (1), nhưng điều đáng ngạc nhiên là đến nay, hình như chưa ai tiến hành tìm hiểu sâu về cuộc thương thuyết Pháp - Hoa và Pháp - Việt trước khi ký hiệp định. Tuy nhiên, còn nhiều tư liệu phong phú trong hồ sơ lưu trữ của Pháp, Anh và Mỹ. Để thúc đẩy việc nghiên cứu đó, chúng tôi trình bày ở đây ba luận đề xét lại, dựa trên sự khai thác hồ sơ lưu trữ:
- Luận đề 1: Để hiểu hiệp định 6 tháng ba, phải bắt đầu từ chiến dịch Bentré (kế hoạch của quân đội Pháp chiếm đóng bắc Đông Dương).
- Luận đề 2: Khởi động chiến dịch Bentré cuối tháng 2 - 1946, nước Pháp đã bị Trung Quốc đưa vào bẫy.
- Luận đề 3: Hiệp định 6 tháng ba đã được Trung Quốc áp đặt cho hai phía, người đang tạm thời làm chủ trò chơi Pháp - Hoa - Việt.
Rõ ràng những tư liệu mà chúng tôi xem xét trong lưu trữ Pháp cho thấy những người có trách nhiệm Pháp đều muốn đạt được một hiệp định với ông Hồ Chí Minh trước khi đổ bộ vào Bắc Kỳ (2). Tư liệu Việt Namdo lực lượng Pháp bắt được về sau hình như cũng cho thấy những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng mong muốn có hiệp định với Pháp. Nhưng điều không ngờ tới, là ngay từ đầu tháng 3, những nhà lãnh đạo ở cả hai phía đều sẵn sàng nhượng bộ nếu cần thiết. Sự nhượng bộ đó được giải thích bằng sự có mặt và áp lực của Trung Quốc.
Đấy là những điều tôi muốn trình bày ở đây.
Luận đề 1: Phải bắt đầu từ Chiến dịch Bentré
“Chiến dịch Bentré” là một mật mã cuộc tái chiến đóng của quân Pháp ở Bắc Kỳ và Bắc Đông Dương. Khi Sainteny, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh ký hiệp định 6 tháng ba, đúng vào ngày lực lượng Pháp đến cảng Hải Phòng, việc đó có mục đích tránh việc bùng nổ chiến tranh. Chiến dịch Bentré được chuẩn bị trong những năm tháng trước, do Phòng 3 Bộ tham mưu của tướng Leclerc, tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Viễn - Đông, chuẩn bị. Tác giả kế hoạch là trung tá Jean Lecomte. Kế hoạch của ông đã được cao uỷ Georges Thierry d’ Argenlieu tán thành trên nét lớn, và việc khởi động chiến dịch đã được Uỷ ban liên bộ Đông Dương chấp nhận trong cuộc họp ngày 20 - 2 - 1946, với sự hiện diện của Cao uỷ. Ngay sau cuộc họp đó, d’ Argenlieu hạ lệnh thực thi. Các đội quân chiếm đóng bắt đầu xuống tàu ngày 27 tháng 2, hai ngày sau khi d’ Argenlieu trở lại Sài Gòn, và ngày 1 tháng 3 hạm đội khởi hành ra bắc (3).
![]() |
Đại sứ Pháp Meyre trình quốc thư lên Tưởng Giới Thạch ngày 17 - 1 - 1946 tại Trùng Khánh, trong cố gắng thương thuyết với Trung Quốc |
Chiến dịch Bentré được tiến hành bởi:
- Một đơn vị đổ bộ đi đường biển từ Sài Gòn và đổ bộ ở vùng Hải Phòng (Sư đoàn 9 Bộ binh thuộc địa của tướng Jean Valluy và Sư đoàn 2 thiết giáp của Massu, tổng cộng 21.000 người chở trên 35 tàu); lực lượng này phải đổ bộ hoặc là mồng 4 hay mồng 6 tháng ba, những ngày duy nhất nước thuỷ triều cho phép tàu Pháp vượt qua cửa sông để cập bến Hải Phòng.
Những lực lượng ven biển, đóng tại Vịnh Hạ Long.
Quân đội Pháp ở Trung Quốc, trở về Bắc Kỳ phía Tây sông Hồng (Những đơn vị này do trung tá Quilichini chỉ huy, đã vượt qua biên giới Bắc Kỳ và đã chiếm Lai Châu, mặc cho sự phản đối của Việt Nam).
![]() |
Quân Quốc dân đảng rút về Hải Phòng ngày 7 - 7 - 1946, chúng dùng cả xe kéo để vận chuyển đồ đạc. Đi ngược lại là đoàn xe của quân Pháp hướng về Lạng Sơn |
Tất nhiên, mục tiêu chính của chiến dịch Bentré là chiếm đóng Hà Nội, thủ phủ cũ của Liên bang Đông Dương, thủ đô của “Chính phủ Cách mạng An Nam”, và cũng chính là thành phố mà phần lớn dân Pháp ở Bắc Kỳ đang sống trong điều kiện tồi tệ. Trong đám dân chúng đó có quân đội thuộc địa Pháp đã bị Nhật tước vũ khí và cầm tù từ tháng 3 - 1945, phần lớn những người đó sống trong Thành, đang nóng lòng trả thù những người châu Á. Một yếu tố quan trọng của Chiến dịch Bentré là bí mật vũ trang lại đội quân đó, sau khi đổ bộ Hải Phòng nhưng trước khi những đơn vị đầu tiên đến Hà Nội. Đầu tiên người ta muốn thả vũ khí xuống Thành, nhưng có lẽ do sợ dân chúng Việt Nam phát hiện, ý tưởng đó đã bị bỏ. Vũ khí sẽ được không vận bằng 12 máy bay từ Sài Gòn đến sân bay Gia Lâm và chuyên chở nguỵ trang trong xe tải Pháp đưa vào Thành (4).
Việc chiếm đóng Hà Nội được tiến hành bằng 3 lực lượng chính:
- Lực lượng trong Thành, phiên chế thành tiểu đoàn có trách nhiệm duy trì trật tự trong các khu vực nhất định;
- Một lực lượng không vận đặc biệt (chiến dịch Ponchardier);
- Đội quân Massu, ngay sau khi đổ bộ xuống Hải Phòng, sẽ tiến về Hà Nội theo đường 5, hay theo sông Thái Bình và sông Luộc để ngược sông Hồng và tiến vào Hà Nội bằng những bến cảng đã chuẩn bị trước.
Uỷ viên Cộng hoà Pháp Sainteny đã nhận được những áp phích tuyên bố thiết quân luật gửi đến từ Sài Gòn, (có chữ ký của chỉ huy quân chiếm đống Trung Hoa tướng Lư Hán). Cần nói thêm rằng kế hoạch nhấn mạnh đến yếu tố bất ngờ.
Có người cho rằng kế hoạch đó là “không thể thực hiện được”. Đúng là như vậy, Chiến dịch Bentré là không tưởng, đơn giản là không thể thực hiện về mặt chiến thuật. Làm sao có thể nghĩ đến việc trang bị cho 3.000 quân giữa một thành phố đang sôi động mà không bị phát hiện? Làm sao có thể tưởng tượng được rằng các đơn vị thiết giáp có thể tiến từ Hải Phòng về Hà Nội trong một nước đang có quân Trung Quốc và quân Việt Nam đóng giữ, mà những người lãnh đạo Việt Nam lại không hay biết? Tuy nhiên kế hoạch đó không phải là ảo tưởng. Nó đã được chuẩn bị cẩn thận và đầy đủ, được ký và duyệt y để làm cơ sở cho mọi việc chuẩn bị và hành động quân sự của Pháp trong hai tháng 2 và tháng 3 - 1946, và cũng làm cơ sở cho cuộc thương thuyết với người Trung Hoa ở Trùng Khánh và Hà Nội. Mục đích chính của những cuộc thương thuyết đó là đạt được sự thoả thuận của Trung Quốc. Đây là chỗ yếu chính của chiến dịch Bentré nó được xây dựng trên ý tưởng cho rằng người Trung Hoa có thể ủng hộ cuộc tái chiếm đóng của người Pháp ở Bắc Kỳ, giống như người Anh đã làm ở Nam Kỳ. Chúng ta sẽ thấy các nhà thương thuyết Pháp đã cố (mà không kết quả) đạt được sự ủng hộ của Trung Quốc để đổ bộ xuống Hải Phòng và vũ trang lại quân trong Thành. Chính cái không thực tế của những ý đồ đó đã đưa chúng tôi đế luận đề thứ hai.
Luận đề 2: Nước Pháp bị Trung Quốc gài bẫy
![]() |
Theo Hiệp định 6 - 3 - 1946 quân Pháp vào thay thế quân Trung Hoa tại Hà Nội |
Tướng Leclerc có lẽ đã hiểu là chiến dịch có nguy cơ đến mức nào, ngay cả trước khi phát động. Ông cố hết sức để chính phủ của ông ra một tuyên bố có thể khiến Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký một hiệp định với Sainteny. Leclerc cũng cố gắng để thực hiện việc phát động chiến dịch trong quyết tâm đáng có của chính phủ chứ không phải chỉ riêng Cao uỷ. Đô đốc d’ Argenlieu thấy cố gắng đó của vị chỉ huy cấp trên là kỳ quặc. Trong cuộc viếng thăm Paris từ 17 đến 25 tháng 2, đô đốc có vẻ không muốn thảo luận về những nguy cơ của một cuộc xung đột toàn diện ở Bắc Kỳ. Ông cam kết với chính phủ rằng mọi việc đều tốt đẹp ở Trùng Khánh và Hà Nội, và trong cuộc họp của Uỷ ban Liên bộ ngày 20 tháng 2, ông cho thấy cảm giác rằng các hiệp ước Pháp - Hoa và Pháp - Việt đều sẵn sàng để ký kết cả hai. Điều đó có vẻ được khẳng định qua một vài công điện rất lo ngại của Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet, người điều hành đường lối Đông Dương của chính phủ, đã gửi cho Cao uỷ trong những ngày đầu tháng 3: “Xin nói rõ ông đã ký kết hiệp định với Hồ Chí Minh để thay thế quân Trung Quốc bằng quân Pháp chưa. Mong muốn của chúng tôi là ông cố gắng đạt được hiệp định trước”. Ngoài ra Moutet không tán thành kế hoạch tái vũ trang quân trong thành: “Tôi nói thêm là để tránh những sự cố tương tự với điều đã xảy ra ở Sài Gòn khi tái vũ trang các trung đoàn địa phương [tháng 9 - 1945. TG], những điều kiện để thực hiện tái vũ trang quân đội trong Thành Hà Nội phải được bảo đảm bằng những điều kiện mong muốn”. Và ông Bộ trưởng cảm thấy không chắc mình đã được nghe lời: “Điều quan trọng là bộ chỉ huy phải đoán chắc rằng Quân đội chỉ có thể là công cụ của một đường lối chính trị. Rằng chúng ta phải cố gắng đạt đến kết quả bằng những biện pháp chính trị để tránh những hành động quân sự. Quân đội không phải phán xét đường lối đó, có vẻ như không có sự tham gia của một số người trong giới quân sự” (6).
Vào lúc quân đội Pháp xuống tàu tại các cảng phía nam Đông Dương, các nhà thương thuyết Pháp ở Trùng Khánh và Hà Nội vẫn chưa thông báo cho người đàm phán Trung Quốc về cuộc đổ bộ sắp xảy ra miền Bắc. Khi d’ Argenlieu, ngay sau cuộc họp Uỷ ban Liên bộ ngày 20 tháng 2, điện cho tướng Leclerc bật đèn xanh phát động chiến dịch, điều đó đặt các nhà đàm phán Pháp ở Trùng Khánh và Hà Nội vào thế ràng buộc khó chịu là phải vội vã đạt được ý chí thực sự của phía chính phủ Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ cuộc tái chiếm đóng của Pháp. Nước Pháp phải nhượng bộ đáng kể với Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế (7), và được sự cam kết hình thức của chính phủ Trung Quốc, ký ngày 28 tháng 2, đồng ý để cho quân Pháp thay thế chiếm đóng của họ ở bắc Đông Dương trong 3 tháng (quân Pháp thay thế sẽ bắt đầu từ ngày 1 và 15 tháng 3, và quân Trung Quốc phải rút khỏi Đông Dương trước ngày 31 tháng 3). Nhưng trong hiệp định này chỉ nói đến một cuộc tiếp quản, chứ không phải là một cuộc tái chinh phục. Trong các cuộc thương thuyết Pháp - Hoa không có nói gì về quy chế của chính phủ Việt Nam . Thật là điên rồ khi tính đến một sự ủng hộ nào đó của Trung Quốc giúp quân Pháp tái chiếm đóng lại trong trường hợp quân Pháp phát động chiến tranh với quân đội Việt Nam (8). Nếu người Trung Hoa quyết định o bế đến khả năng đó, khi đó nước Pháp buộc phải nhượng bộ, vì Chiến dịch Bentré không thể tiến hành có kết quả khi đi ngược lại ý chí của Trung Quốc và cả Việt Nam.
Chúng ta sẽ thấy người Trung Quốc vận dụng tình thế đó như thế nào. Sự vui mừng mà người Pháp cảm thấy khi ký kết hiệp định Pháp - Hoa, ngày 28 tháng 2, không kéo dài được lâu. Khi phía Pháp, sau khi ký thoả thuận ngoại giao, báo cho bộ tham mưu Trung Quốc biết một hạm đội đang lên đường tới Hải Phòng và cuộc đổ bộ sẽ thực hiện trong những ngày đầu tháng 3, tin tức đó không làm cho người Trung Quốc vui vẻ, và sự thông cảm của họ cũng không tăng khi người Pháp yêu cầu họ tạo thuận lợi cho việc tái vũ trang quân đội Pháp trong Thành Hà Nội (9). Theo các nhà thương thuyết Pháp thì phía Trung Quốc phải giải toả các cảng ở Hải Phòng, hộ phải bảo đảm an toàn con đường giữa Hải Phòng và Hà Nội, cho phép hạ cánh 12 máy bay ở Gia Lâm và bảo đảm an ninh con đường từ Gia Lâm đến Thành. Các yêu cầu đó được thảo luận ở Trùnh Khánh ngày 1 tháng 3. Pháp hối thúc để bộ tham mưu Trung Quốc gửi những chỉ thị cần thiết ngay tối hôm đó đến Hà Nội. Người Trung Quốc, sau khi bày tỏ thái độ tiêu cực và mối quan ngại về sự trả đũa của Việt Nam đối với dân chúng người Hoa ở Bắc Kỳ, đã thoái thác và trong những ngày tiếp theo và liên tiếp xin lỗi để trì hoãn việc thoả thuận. Cuối cùng sự việc được đặt vào tay chính bản thân thống chế Tưởng Giới Thạch vào lúc diễn ra Kỳ họp thứ hai của Đại hội 6 Quốc Dân Đảng, trong đó cánh hữu đưa ra lời chỉ trích Thống chế đã giao Việt Nam cho thực dân Pháp. Cuối cùng người Pháp phải nhờ cậy đại sứ Anh để họ thuyết phục ông bạn Thống chế, nhưng sự việc tiến hành (lại không có sự thoả thuận của Đô đốc Mounbatten) hình như đã thất bại.
Một tháng trước, lúc kế hoạch tái chiếm Bắc kỳ được một đại diện của bộ chỉ huy giải thích lần đầu cho chính phủ Pháp, ông này nhấn mạnh rằng chiến dịch không thể tiến hành bằng một hành động quân sự thuần tuý, mà phải có “vỏ bọc” bằng hành động ngoại giao đối với chính phủ Trung Hoa và đối với “các thủ lĩnh An Nam”. Chính “vỏ bọc” ngoại giao đó đã rơi đến Trùng Khánh trong những ngày đầu tháng 3. Tướng Salan phải cố hết sức trong các cuộc thương thuyết với bộ chỉ huy Trung Quốc tại chỗ ở Hà Nội, và Sainteny trong các cuộc thương lượng với người Việt Nam. Nhiệm vụ của tướng Salan không phải dễ dàng, vì người chỉ huy lực lượng chiếm đóng Trung Quốc, tướng Lư Hán, cũng như viên chỉ huy quân đoàn 53, tướng Chu Phúc Sinh, cả hai đều đang ở Trùng Khánh dự Đại hội của Quốc Dân Đảng. Tướng Salan đành phải dàn xếp với hai vị cấp phó là tướng Mai Anh và tướng Triệu Chính Phiên. Hơn nữa, Salan còn phải thương lượng với trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Trung Quốc tại Hà Nội là Shai Baichang. Ngày 3 tháng 3, Salan gửi thư cho tướng Lư Hán xác định ngày đổ bộ là 6 tháng 3, nói rõ cách thức tái vũ trang quân trong Thành, và đề nghị được tự do sử dụng các sân bay ở khắp miền Bắc Đông Dương cũng như các đường giao thông giữa Hải Phòng và Hà Nội. Ông ta nhanh chóng vấp phải yêu cầu của những người đối thoại là phải để họ nhất trí với nhau đã, rồi còn phải chờ chỉ thị cấp trên ở Trùng Khánh. Trước mắt, Salan đành phải từ bỏ nỗ lực tái vũ trang quân trong Thành, và tập trung vào vấn đề cấp thiết nhất: đổ bộ vào Hải Phòng.
Mặc cho những khó khăn, và nhờ vào áp lực mạnh mẽ trong cuộc họp kéo dài từ 4 tháng 3 đến sáng sớm ngày 5, Salan đã đạt được thoả thuận từng phần cho phép tàu Pháp “trình diện” ở Hải Phòng ngày 6 tháng 3 mà không đổ quân xuống, tuy vấn đề này vẫn còn được nêu lên một lần nữa trong ngày 5 do những mệnh lệnh mới đến từ Trùnh Khánh. Salan lại phải làm lại từ đầu. Một lần nữa trong đêm 5 và 6 tháng 3 còn đưa đến một thoả thuận nhằm ngăn cản một cuộc đụng độ Pháp - Hoa ở Hải Phòng, nhưng ngày 6 tháng 3, như chúng ta đã biết, các tàu Pháp đã được đón chào bằng hoả lực mạnh mẽ của pháo Trung Quốc.
Cuộc đàm phán Salan - Trung Quốc và những cuộc tranh luận diễn ra quanh vụ “sự biến Hải Phòng” đã được Lâm Hoa vạch rõ, ở đây không cần nhắc lại diễn biến của cuộc khủng hoảng Pháp - Hoa. Điều mà tướng Leclerc đã biết từ hồi đó và Lâm Hoa vừa chứng minh một cách chính xác, thì vụ 6 tháng 3 hoàn toàn không phải là một “sự biến” có nguồn gốc địa phương, mà là một ý đồ bảo vệ những lợi ích của Trung Quốc và châu Á, do tướng Wang Lihuan, chỉ huy sư đoàn 130 thuộc quân đoàn 53, đã thực hiện theo đúng chỉ thị đến từ Trùng Khánh. Nói tóm lại, tất cả những gì người Trung Quốc đã làm để trì hoãn cuộc đổ bộ của quân Pháp phải được hiểu là một đường lối có lý để gây áp lực, dù đã được tính toán từ trước.
Vậy mục đích của việc gây sức ép đó là gì?
Đấy là điểm chính của luận đề thứ ba.
Chú thích:
(1) Lâm Hoa, Tưởng Giới Thạch, de Gaulle chống Hồ Chí Minh, Paris, l’ Harmattan, 1994.
(2) Tướng de Gaulle lại có quan điểm khác, nhưng lúc đó ông không còn cầm quyền nữa.
(3) Hai người chỉ huy Leclerc và d’ Argenlieu không tin nhau. Nhưng sự khác biệt về quan điểm không được nói rõ. Sau ngày 6 tháng 3 Leclerc bảo vệ giải pháp hoà bình bằng việc thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định, còn d’ Argenlieu không tin vào sự thoả thuận lâu dài. Nhưng ngày 20 tháng 2 lại là Leclerc chủ trương giải pháp vũ lực, vì ông sợ Argenlieu từ bỏ chiến dịch Bentré và bằng lòng với giải pháp ngoại giao. Vì vậy Leclerc nhấn mạnh trong công điện gửi tướng Juin rằng chiến dịch là cần thiết.
(4) Vũ khí gồm có 46 súng máy, 440 súng lục, 1500 súng trường và mousqueton, và 659 tiểu liên Sten (trong đó có 300 để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt).
(5) Bản thân Leclerc cũng nói cuối tháng 3 rằng: “… cần thiết phải tìm một chính phủ Việt Nam , dù cho có không hoàn chỉnh, ở ngay Hà Nội và không rút vào rừng”. Báo cáo về tình hình tái chiếm Đông Dương từ Sài Gòn ngày 27 - 3 - 1946.
(6) Moutet gửi, Cao uỷ, Hồ sơ Các nước liên hiệp, MAE.
(7) Lâm Hoa, Tưởng Giới Thạch, de Gaulle và Hồ Chí Minh: Quan hệ Trung - Pháp 1945 - 1946 tại Việt Nam, đã viết “Lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thuốc phiện… Trung Quốc đã giành được lợi thế trên mọi phương diện trong cuộc thương thuyết với một cường quốc phương Tây”, Nxb l’ Harmarttan, 1994, tr 223.
(8) Ngay từ 26 tháng 2, trưởng đoàn đàm phán quân sự ở Trùng Káhnh, đại tá Jean Crépin, đã lưu ý Cao uỷ: “Để cho cuộc đổ bộ có hy vọng cuối cùng được thực hiện vào đầu tháng ba, cần thiết phải được… Ngoại kiều Vụ và Bộ Tham mưu Trung Quốc bày tỏ thiện chí thật tốt và chấp nhận một lộ trình khẩn cấp đặc biệt”. Công điện đó chỉ nhận được ở Sài Gòn, ngày 1 tháng 3. Crépin gửi Cao uỷ, CAOM.
(9) Yêu cầu đó đã được tướng Salan đưa ra từ đầu tháng 2 trong một chuyến công cán đến Trùng Khánh, nhưng không được người Trung Quốc tiếp nhận.