Hiện đại hóa thủy lôi chống tàu
Hơn 150 năm qua, kể từ khi xuất hiện trong chiến tranh Crưm (1853), thủy lôi sử dụng ngày càng nhiều trong các cuộc chiến tranh, trên chiến trường sông, biển. Ngoài phòng thủ, chống các cuộc đổ bộ từ hướng biển, thủy lôi còn được dùng để đánh phá các phương tiện nổi trên mặt nước, tàu chiến, tàu ngầm và các công trình trên biển, đảo. Ưu điểm nổi bật của thủy lôi là dễ lắp ráp, sử dụng đơn giản, chi phí không lớn, độ tin cậy và hiệu quả chiến đấu cao. Thủy lôi được phóng rải từ nhiều loại phương tiện khác nhau, như máy bay, tàu nổi, tàu ngầm và các phương tiện vận tải thông dụng khác. Ước tính trên thế giới hiện có khoảng hơn 300 kiểu loại thủy lôi và được phân biệt bằng nhiều cách. Phân loại theo phương pháp thả có thủy lôi neo, đáy và trôi; theo sự cơ động có thủy lôi tự đẩy và cố định; theo nguyên lý nổ có thủy lôi tiếp xúc và kích nổ… Cách phân biệt phổ biến nhất là theo phương pháp thả, qua đó có thể nhận biết được những tính năng kỹ thuật, chiến thuật đặc trưng của thủy lôi.
Thủy lôi neo chủ yếu được thả từ tàu nổi và dùng để đánh phá các công trình trên biển, phương tiện, tàu, thuyền mặt nước. Các loại thủy lôi neo AGM, KB, KB Krab, AGSB, KAM, KPM, IAM… của LB Nga hoạt động tin cậy, hiệu quả chiến đấu cao, hầu hết được phát triển, chế tạo từ thập niên 50 đến 80 của thế kỷ trước mang thuốc nổ mạnh. Hàng chục năm qua, Nga đã không ngừng cải tiến các loại thủy lôi neo hiện đại hơn để nâng cao hiệu quả chống tàu và chống ngầm; trong đó tập trung cải tiến thiết bị kích nổ, sử dụng transitor cho mạch điểm hỏa của thủy lôi. Nga cũng đã chuyển giao cho Trung Quốc công nghệ chế tạo thủy lôi neo EM-31, EM-32. Quân đội các nước Mỹ, NATO và châu Âu cũng phát triển hàng loạt các loại thủy lôi neo tiên tiến, như Mk-56 của Mỹ, DM-51 (Đức), MAS-22 và MAL-17 (I-ta-li-a), MTP-19 (Na Uy), BGM-600 (Thụy Điển), thủy lôi Carmina (Tây Ban Nha)…
Thủy lôi đáy được thả từ nhiều phương tiện khác nhau, trên không, trên biển và từ tàu ngầm. Thủy lôi đáy lẫn trong bùn đất, vùi dưới cát, nên rất khó bị phát hiện bởi các thiết bị dò tìm và quét thủy lôi dưới nước. Rất nhiều kiểu loại thủy lôi đáy như UĐM, MĐM, AĐM, IGĐM, UĐM của LB Nga được phát triển, nâng cấp không chỉ đáp ứng yêu cầu trang bị trong nước mà còn xuất khẩu, trang bị rộng rãi trong quân đội nước ngoài. Các loại thủy lôi đáy từ Mk-52 đến Mk-65 của Mỹ; Stonefish, Sea Urchin, Dragonfish của Anh được đánh giá là hiện đại nhất đã được trang bị trong khối NATO và bán cho nhiều nước. Trung Quốc cũng đã chế tạo các loại thủy lôi đáy cảm ứng, điều khiển từ xa EM-11, EM-53. Mặc dù thủy lôi thả trôi đã bị Công ước quốc tế cấm phát triển, nhưng nhiều nước vẫn còn chế tạo, trong đó có thủy lôi trôi phản lực EM-52 của Trung Quốc, với 8 biến thể khác nhau để dùng cho các tình huống chiến thuật khác nhau.
Yêu cầu đối với thủy lôi hiện đại là dễ lắp ráp, giảm bớt công bảo quản, bảo dưỡng, bố trí nhanh, sử dụng an toàn và được lắp ráp các thiết bị điều khiển, xử lý tiên tiến. Để dễ lắp ráp, thủy lôi được thiết kế theo hướng mô-đun hiện đại và có khả năng tích hợp nhiều tính năng trên một sản phẩm. Mỹ đã sử dụng mô-đun tự hủy, mô-đun phát hiện mục tiêu để áp dụng cho thủy lôi cải tiến Mk-75. Hải quân Anh ứng dụng sản xuất thủy lôi có lắp các mô-đun thông tin mục tiêu với ngòi nổ thủy âm kết hợp từ tính. I-ta-li-a đã sử dụng mô-đun phát hiện mục tiêu lắp cho thủy lôi Mk-13 MOD6. Những năm gần đây, hải quân Mỹ phát triển các loại thủy lôi điều khiển đa kênh và tự hoạt, kết cấu theo kiểu "mẹ-con" như thủy lôi LSM, khi phóng rải có thể tạo được bãi thủy lôi dài tới 16km với 400 quả thủy lôi kiểu Mk-56. Trong các loại thủy lôi mới, hiện đại, các nhà thiết kế, chế tạo đã ứng dụng rộng rãi tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ thông tin, kỹ thuật vi xử lý, mạch lô-gích, hệ thống trí tuệ nhân tạo giúp thủy lôi có khả năng phân biệt tàu thuyền đi qua, bảo đảm tiến công chính xác mục tiêu cần tiêu di ệt.
Nguồn: qdnd.vn (21/10/07)








