Hai mô hình phát triển rau sạch
Việc sản xuất nông nghiệp sạch nói chung và rau sạch nói riêng hiện nay thật sự là yêu cầu cấp bách không những của người tiêu dùng (vì sức khỏe của họ) mà còn vì lợi ích của người sản xuất (vì sự tiêu thụ và thu nhập của họ) cũng như yêu cầu của người quản lý, của xã hội (vì sức khỏe cộng đồng và sự bền vững của môi trường). Vì vậy không có gì lạ khi Nhà nước, ngành nông nghiệp và địa phương, có nhiều chủ trương, giải pháp nhanh chóng phát triển rau sạch. Ðã có những thành công và cũng có những thất bại. Thậm chí có nơi làm theo kiểu phong trào, theo "mốt".
Qua theo dõi chúng tôi thấy có hai loại hình chủ yếu trong phát triển rau sạch hiện nay ở nước ta:
Thứ nhất là, mô hình rau sạch trên diện tích hẹp với đầu tư cao, chủ yếu là đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật. Ðó là trồng rau sạch trong nhà kính, nhà lưới, trồng rau sạch thủy canh...
Ưu điểm của mô hình này là có thể trồng rau sạch trái vụ, cho năng suất cao, tránh được những bất lợi do thời tiết (mưa, gió lớn) phù hợp chủ yếu với rau ăn lá và rau cao cấp phục vụ một số yêu cầu khắt khe, cao cấp của người tiêu dùng.
Khiếm khuyết lớn nhất của mô hình này là quy mô thường nhỏ, do vậy số người tham gia sản xuất ít, sản lượng rau sạch nhỏ, không đáp ứng được đông đảo cộng đồng người tiêu dùng, tác động bảo vệ môi trường hạn chế, giá thành cao, hơn nữa đầu tư khá cao (cho 1 ha nhà lưới từ 250 đến 300 triệu đồng, cho nhà kính hàng tỷ đồng) nên khó mở rộng.
Do vậy mô hình này chỉ nên phát triển có chọn lọc trước hết là làm rau sạch hữu cơ rau trái vụ, rau giống, rau cao cấp cho những nhu cầu đã được đặt. Mô hình này cũng không phù hợp khí hậu, thời tiết nước ta, sự không thành công của mô hình nhà lưới ở một số thành phố, tỉnh thời gian qua cũng cho thấy điều đó.
Thứ hai là, mô hình phát triển rau sạch đại trà ngoài đồng trên diện rộng, đầu tư không cao chủ yếu là đầu tư kỹ thuật, huấn luyện nông dân, nhược điểm chủ yếu là không trồng được rau trái vụ, hay bị tác động bất lợi của thời tiết nhưng ưu điểm lớn là nhiều nông dân biết cách và tham gia trồng rau sạch, diện tích và sản lượng lớn nên đáp ứng được yêu cầu của cộng đồng tiêu dùng, khai thác được các ưu thế của thời tiết nhiệt đới, giá thành thấp (thường gần bằng giá rau thông thường hoặc tăng không quá 10%) tác động tích cực nhanh và rộng đến nông nghiệp, môi trường và cộng đồng xã hội, dễ mở rộng quy mô sản xuất.
Ðây được gọi là mô hình "sản xuất rau sạch cộng đồng" đã được nghiên cứu ứng dụng và khởi xướng, từ tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2000 - 2003, từ đó lan ra khá nhiều địa phương (Hà Nội, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Khánh Hòa...) và tỏ ra thích hợp, có hiệu quả.
Ở Vĩnh Phúc một tỉnh có diện tích rau hằng năm khoảng 7.000 ha, sản lượng gần 12 - 15 vạn tấn/năm, ở thời điểm 1999 - 2003, đã có một vùng rau sạch cộng đồng 500 ha, sản lượng 1,5 vạn tấn/năm với sự tham gia của chín nghìn hộ nông dân. 95% số hộ nông dân trong vùng áp dụng tốt kỹ thuật, tỷ lệ rau đạt tiêu chuẩn RAT trong vùng đã tăng từ 35 đến 40% lên 90 - 95%, mức đầu tư cho một ha rau an toàn (phần hỗ trợ của dự án) khoảng ba triệu đồng/ba năm, hình thành bước đầu cơ chế quản lý và giám sát chất lượng rau sạch trong khâu sản xuất, lợi ích người trồng rau sạch được đảm bảo, kể cả khi bán theo giá rau chợ vẫn cho lãi khoảng một triệu/ha.
Rõ ràng, trong điều kiện sản xuất, tiêu dùng khả năng đầu tư, trình độ nông dân của chúng ta hiện nay, cần tập trung nhanh chóng phát triển mô hình "rau sạch cộng đồng".
Mô hình phát triển rau sạch cộng đồng "RSCÐ" có một số đặc điểm đó là:
Ba tính chất cộng đồng: cộng đồng về sản xuất, cộng đồng về tiêu dùng, cộng đồng về lợi ích.
Năm đặc điểm của RSCÐ: sản xuất rau sạch (RS) đại trà ngoài đồng trên diện tích lớn; đầu tư kỹ thuật là chủ yếu; bảo đảm lợi ích cả của người trồng rau lẫn người tiêu dùng rau và xã hội; phương thức chuyên gia kỹ thuật phải đơn giản dễ tiếp thụ, dễ áp dụng; quản lý chất lượng ở khâu sản xuất là chủ yếu.
Năm nội dung kỹ thuật chủ yếu của RSCÐ: Áp dụng các biện pháp canh tác truyền thống và thâm canh phù hợp yêu cầu RSCÐ; áp dụng công nghệ IPM rau; ứng dụng công nghệ vi sinh hữu hiệu EM và các chế phẩm sinh học BVTV thay thế dần hóa chất nông nghiệp; sử dụng nông dược hợp lý và an toàn; thực hiện "5 điều cấm trong sản xuất rau sạch" (cấm sử dụng phân tưới, nước giải tưới; cấm sử dụng nước bẩn, cấm bón quá 200 kg N/ha; cấm dùng thuốc BVTV độc hại cao; cấm sử dụng hóa chất nông nghiệp trong vòng 10 ngày trước thu hoạch).
Bốn nội dung quản lý chủ yếu trong sản xuất RSCÐ: Quy hoạch vùng sản xuất RSCÐ, mỗi xã trong vùng có một cán bộ kỹ thuật rau sạch, cứ 10 ha RS có một kỹ thuật viên RS; tăng cường việc quản lý kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV và vật tư nông nghiệp trong vùng; xây dựng một cơ chế quản lý giám sát chất lượng sản xuất RS; gắn kết các đơn vị sản xuất RS với các đơn vị kinh doanh, tiêu thụ RS cũng như cơ quan QLNN và chỉ đạo sản xuất.
Phát triển rau sạch là định hướng đúng trong sản xuất nông nghiệp, cần được đẩy mạnh ở nước ta. Vấn đề là lựa chọn mô hình nào vừa bảo đảm lợi ích lâu dài của người sản xuất, người tiêu dùng, môi trường và xã hội.
Nguồn: Nhân Dân, 27/08/2005