Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 17/02/2011 19:19 (GMT+7)

Giới thiệu một số bản đồ cổ thềm lục địa, biển Đông và hải đảo Việt Nam

Những bản đồ thế giới có vẽ Việt Nam, biển Đông với Hoàng Sa - Trường Sa và ghi bờ biển là ở Việt Nam

Từ khi Việt Nam giành được quyền tự chủ (939), chính quyền và tác giả Trung Hoa vẽ bản đồ về nước ta cũng khá nhiều, song chủ yếu là ở phần đất liền. Về biển Đông và hải đảo của Việt Nam , chúng tôi tạm thấy có ba bản đồ mô tả khá rõ: Đó là: 1) Bản đồ Giao Chỉ quốc - Giao chỉ dương trích từ sưu tập bản đồ Võ bị chí (thế kỷ XV). 2) Bản đồ diên cách Việt Nam Đông Đô - Việt Nam Tây Đô với Đông Dương đại hải của Ngụy Nguyên (1842). 3) Bản đồ An Nam quốc với Đông Nam hải cũng của Ngụy Nguyên (1842).

Sưu tập bản đồ Võ bị chí vẽ lại cuộc hành trình của Trịnh Hòa đã 7 lần, trong thời gian 1405 - 1433, đem hạm đội hùng mạnh vượt biển Đông Nam Á sang Ấn Độ Dương qua các nước Tích Lan, Ấn Độ, Ả Rập, vào Biển Đỏ rồi xuôi xuống bờ biển Nam Phi. Tới đâu ghi vẽ bản đồ ở đó. Đây trích bản đồ Võ bị chí vẽ năm 1621. Tới nước ta, bắc giáp Trung Hoa, nam giáp Chiêm Thành quốc, tây toàn núi non, đông là biển cả được ghi rõ Giao chỉ dương. Khi ấy nước ta tự xưng Đại Việt, Trung Quốc gọi là An Nam quốc. Tuy Võ bị chí vẫn gọi nước ta theo tên Giao Chỉ cổ đại, nhưng cũng tỏ ra tôn trọng chủ quyền của nước ta trên lục địa lẫn biển cả tức biển Đông.

Ngụy Nguyên ghi vẽ bản đồ diên cách Việt Nam khá chính xác: Việt Nam đông đô tức Đàng Ngoài xưa kia là Tượng Quân rồi Giao Chỉ. Việt Nam tây đô tức Đàng Trong xưa kia là Việt Thường - Nhật Nam - Lâm Ấp - Chiêm Thành rồi Quảng Nam… Ở ngoài khơi thuộc Việt Namđông đô là quần đảo Vạn Lý Trường Sa tức quần đảo Vạn Lý Trường Sa của Việt Nam . Ngoài khơi biển cả được ghi rõ Đông Dương đại hải.

Trên bản đồ An Nam quốc - đáng lẽ gọi là Việt Nam quốc mới đúng - Ngụy Nguyên ghi thêm nhiều địa danh các vương quốc phụ thuộc làm ranh giới chiếm phần lớn bên hữu ngạn sông Mê Kông nay thuộc Thái Lan. Ngoài biển Đông, Ngụy Nguyên ghi rõ Đông Nam hải, chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên lục địa và biển cả rất là rộng lớn và được tôn trọng hiển nhiên.

Bên Tây phương, người Hy Lạp phát triển rất sớm cách vẽ bản đồ trên các đường kinh tuyến và vĩ tuyến. Ptolémée đã viết sách Địa lý (Geographia) và vẽ bản đồ Cựu lục địa từ thế kỷ II. Nhưng phần Âu châu và Cận động thì khá đúng, còn phần Phi châu và Á đông thì sai sót nhiều. Đến thế kỷ VII, Hồi giáo phát sinh và phát triển mạnh ở Trung Đông. Người Ả Rập đi truyền giáo và giao thương khắp nơi, chủ yếu qua Afghanistan, Ấn Độ, Mã Lai, Indonesiavà nam phần Phi Luật Tân. Tới giữa thế kỷ XII, Ash Sharif al Idrisi vẽ bản đồ Cựu lục địa. Đây là bản đồ vẽ lại năm 1553.

Năm 1492, Christophe Colomb nhân danh Tây Ban Nha phát hiện ra Tân thế giới tức Mỹ châu. Các nước Tây Âu đua nhau đi tìm vàng và chiếm lĩnh thị trường rồi thuộc địa. Năm 1497, Vasco de Gama nhân danh Bồ Đào Nha phát kiến đường sang Ấn Độ đi vòng qua mũi Hảo Vọng ở nam Phi châu. Gama trở thành Phó vương Ấn Độ. Nhà hàng hải Affonso de Albuquerque chiếm đóng Goanăm 1510, Malacca năm 1511. Tomé Pires viết sách Suma Orientalcho biết năm 1523 mới khám phá ra bờ bể nước Giao Chỉ Chi Na (en 1523, les découvertes des côtes de la Cochinchine). Năm 1525, Diogo Ribeiro vẽ bản đồ nước ta với biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa mang tên gọi là pracel rồi sau đổi thành Paracel (1). Từ đây đến suốt thế kỷ XIX, các nước Tây Âu thực hiện được nhiều bản đồ thế giới gồm cả 5 châu. Trong đó ghi tên nước ta là Giao Chỉ với cách phiên âm rất khác nhau tùy theo ngôn ngữ các dân tộc.

Trích bản đồ Petrus Plancius 1594. Tên toàn quốc là Cauchin (Giao Chỉ) khi ấy đã chia ra Tunquin (Đàng Ngoài) và Cochinchina (Đàng Trong).

Địa danh Giao Chỉ được các bản đồ Tây phương ghi thành Cochi, Cauchi,Cauci, Quachym, Cochin… khi ấy bên Ấn Độ có xứ Cochin, các bản đồ Tây phương ghi cho rõ hơn là Giao Chỉ gần Trung Quốc tức Cochinchina với các dạng khác nhau. Như vậy, nói chung trước thế kỷ XVII,địa danh Cochinchine và các dạng tương tự là tên gọi toàn quốc Đại Việt. Cuối thế kỷ XVI, nước ta chi ra Đàng Trong và Đàng Ngoài. Các bản đồ Tây phương ghi tên Đàng Trong là Cochinchina và ĐàngNgoài là Tunquin (Đông Kinh). Thời Pháp thống trị, nước ta bị chia làm 3 kỳ. Pháp đặt tên là Bắc kỳ là Tonkin, Trung kỳ là Annamvà Nam kỳ là Cochinchine.

Chúng ta đã thu thập và nghiên cứu hàng trăm bản đồ thế giới của các nước Tây phương thực hiện, hầu hết trong đó đều có ghi đất nước ta với các hải đảo Hoàng Sa - Trường Sa mà họ gọi tên chung là Pacracel hay Pracel. Bờ biển Pracel (Costa Pracel) là ở Trung bộ Việt Nam . Không một bản đồ nào ghi bờ biển Pracel ở Nam Trung Hoa hay ở Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai. Thật hiển nhiên, khắp thế giới đều thừa nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam .

Sau đây là đất nước Đại Việt cùng biển Đông và Hoàng Sa - Trường Sa trích ra từ các bản đồ thế giới hoặc khu vực Đông Á (ngoại trừ Alexandre de Rhodes 1650, Công ty Đông Ấn La Haye 1658, Taberd 1838 vẽ riêng bản đồ Việt Nam).

1. 1525 - 1527 - 1529 - Diogo Ribeiro - Bờ biển Việt Nam và Biển Đông.

2. 1527 - Diogo Ribeiro.

3. 1529 - Diogo Ribeiro.

4. 1529 - Gerolamo de Verrazzano.

5. 1548 - Giacomo Gastaldi. Comche China (Giao Chỉ Chi Na).

6. 1551 - Andreas Homen Pracel.

7. 1554 - G. B. Ramusio Cochinchina.

8. 1560 - Bartholomeu Velho. Quachim (Giao Chỉ) Pracel.

9. 1560 - Trích Livro da Marinharia. Quachim (Giao Chỉ) Pracel.

10. 1563 - Lazaro Luis. Quachym (Giao Chỉ) Pracel.

11. 1563 - G. B Ramusio, Cochinchina (Giao Chỉ Chi Na).

12. 1564 - Abraham Ortelius Bản đồ thế giới Cauchinchina.

13. 1569 - Geradus Mercator Cachuchina.

14. 1584 - Ludovico Georgio Cauchin China Pracel.

15. 1587 - Abraham Orteluis. Nova Tottus (Bản đồ thế giới) binhachu.

16. 1590 - Tác giả Bồ Đào Nha. Không nhìn rõ chữ Pracel.

17. 1590 - Bartolomeu Lasso. Cabachinchina.

18. 1590 - Fernão Vaz Dourado. Cochi (Giao Chỉ) Pracel.

19. 1591 - Joan Martin. Cauchin Delissial (?)

20. 1592 - 94 - Bartolomeu Lasso. Tunquin (Đông Kinh - Đàng Ngoài) Cochinchina (Giao Chỉ Chi Na - Đàng Trong).

21. 1595 - Geradus Mercator. Cachuchina Pulo Capaa.

22. 1595 - Anh em Van Langren. Cochinchina Pracel.

23. 1599 - Edward Wright. Baixos de Chapar Carte du monde Pracel.

24. Thế kỷ XVI - P. Loerius Calavit Cauchin Pracel Costa de Pracel.

25. 1604 - Josua Van Den Ende. Couchin China Pracel.

26. 1613 - Mercator. Cochinchina Pracel.

27. 1617 - Frisscher. Tunquin Cauchin China Pracel.

28. 1630 - Juão Teixeira. Cauchinchina (Giao Chỉ Chi Na) Pracel.

29. 1639 - Juão Teixeira. Cau Chin China(Giao Chỉ China ) Pracel.

30. 1640 - Juão Teixeira - Albermaz. Caochia China(Giao Chỉ China ) Pracel.

31. 1641 - Antonio Sanches. Cauchin China Pracel.

32. 1646 - Begin Ende Voortgangh. Cauchinchina Pracel.

33. 1649 - Joãn Teixxeira - Albermaz. Caochia China(Giao Chỉ China ) Pracel.

34. 1650 - Alexandre de Rhodes. Regnũ Annam (Vương quốc An Nam) Cù lao Ré.

35. 1658 - 1659 - Công ty Thương mại Viễn đông (La Hage). Couchinchina Tonquin Quinam (Quảng Nam ) Pracel.

36. 1649 - 1664 - Juão Teixeira. Cua Chim China

37. 1663 - Guilienno Blaeu Pracel.

38. 1665 - Richard B.Arkwan.

39. 1686 - Père Duval. Tonquin Cochinchine (ghi 2 ý nghĩa: Giao Chỉ, Đàng Trong).

40. 1693 - Vicenzo Coronelli. Globe terrestre Tunkin Cocincina Baixos de Chapar.

41. 1714 - P. Placide. Tonquin Cochinchina (2 địa điểm)

42. 1716 - Herman Moll. Tonquin Cochinchina (chỉ 2 địa điểm) Paracel.

43. 1719 - Henri Chaatelin. Tonquin Cochinchine (chỉ 2 địa điểm) Paracel.

44. 1755 - Danville . TonkinCocinchina Pracel.

45. 1793 - Staunton . Tung Quin Cochin ChinaParacel.

46. 1838 - Taberd. An Nam đại quốc họa đồ.

47. 1840 - J. Perthes. An NamParacel - Đã ghi tên một số đảo sau này gọi là Spratly Islands (quần đảo Trường Sa).

48. 1840 - Annales de la Propagation de la Foi. An Nam Tong King Cochinchine Paracel.

49. 1874 - E. G. Ravenstein - An Nam Paracel Ins (thuộc An Nam) - Đã ghi một số đảo thuộc Trường Sa nhưng chưa có tên quần đảo Spratly và vẫn coi như thuộc quần đảo Paracel.

50. 1886 - Atlas des Missions. TonkinCochinchine Paracels.

Bản đồ Đông Ấn Độ do Blacu thực hiện năm 1635. Tuy chưa ghi rõ địa danh Giao Chỉ, nhưng đã vẽ rõ khối dài quần đảo Pracel ở giữa biển Đông và bờ biển Pracel (Costa de Pracel) là ở Trung bộ Việt Nam ngày nay.

Với 50 bản đồ hoặc mẩu bản đồ trên đây mô tả đất nước Việt Nam với thềm lục địa và biển Đông,trích lục từ các bản đồ thế giới hay khu vực Á Đông (do các nước Tây phương ấn hành suốt từ 1525 đến 1886), chúng ta thấy dần dần sự hiểu biết của thế giới về đất nước ta ngày một chính xác, cả vềhình thể lẫn địa danh. Nếu lấy Đại Nam nhất thống toàn đồ(1840) làm căn bản, ta sẽ thấy hầu hết các bản đồ thế giới đều ghi vẽ quần đảo Pracel hay Paracel(gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa) đúng với hình dáng và vị trí của Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa do Quốc sử quán triều Minh Mạng công bố. Hơn nữa, Giám mục Taberd đã ghi rõ trong An Nam đại quốc họa đồ(1838) ở địa điểm thích đáng: Paracel seu Cát Vàng (Paracel hay Cát Vàng). Taberd đã ghi địa danh Nôm Cát Vàng thay cho chữ Hán Hoàng Sa. Nhưvậy, chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông từ Hoàng Sa và Trường Sa đã được thế giới khẳng định qua các đồ bản suốt từ 500 năm qua.

Hai mươi tám tỉnh thành phố hiện nay có thềm lục địa giáp biển đông

Để so sánh với các bản đồ cổ thực hiện trên một trăm năm nay, chúng ta có 28 tỉnh có thềm lục địa giáp với Biển Đông như sau:

Quảng Ninh; TP. Hải Phòng; Nam Định; Thái Bình; Ninh Bình; Thanh Hoá; Nghệ An; Hà Tĩnh; Quảng Bình; Quảng Trị; Thừa Thiên - Huế; TP. Đà Nẵng; Quảng Nam; Quảng Ngãi (huyện đảo Trường Sa); Bình Định; Phú Yên; Khánh Hoà (huyện đảo Trường Sa); Ninh Thuận; Bình Thuận; TP. HCM; Bà Rịa - Vũng Tàu; Bến Tre; Trà Vinh; Sóc Trăng; Bạc Liêu; Cà Mau; Kiên Giang (9).

Với những tư liệu trên - tuy chưa được hoàn toàn đầy đủ - hy vọng chúng ta sẽ có được khái niệm đầy đủ về thềm lục địa, hải đảo và Biển Đông của Việt Nam . Chúng ta sẽ nắm bắt được lịch sử biến chuyển về địa lý tự  nhiên và địa lý hành chính của phần biển khơi - rộng 1 triệu km 2- gấp 3 lần đất liền của Tổ quốc. Có lẽ những tư liệu nêu trên cũng góp phần nghiên cứu cụ thể và sâu sắc phần biển và đảo vĩ đại và thân yêu của dân tộc Việt Nam .

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".