Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 10/04/2006 15:37 (GMT+7)

Giải pháp nào cho giáo dục đại học?

Cuộc cách mạng công nghệ và xu thế kinh tế tri thức từ vài thập kỷ lại đây càng nêu cao vai trò của giáo dục đại học, không chỉ đối với các nước tiền tiến mà cả đối với các nước khác (2) . Cho nên tuy hiện nay dư luận xã hội đang quan tâm nhiều nhất về chất lượng giáo dục phổ thông, tôi vẫn nghĩ giáo dục đại học mới là cái đáng lo hơn cả.

So với thế giới và các nước trong khu vực, giáo dục đại học của ta tụt hậu còn xa hơn giáo dục phổ thông, mà trước mắt triển vọng cũng chưa có gì sáng sủa. Năm 1996, Nghị quyết Hội nghị TƯ II (khoá VIII) từng xác đinh rất đúng đắn phải thực sựcoi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, thế mà từ bấy đến nay, đã 8 năm rồi, người dân vẫn chưa hết lo lắng về giáo dục. Phải chăng, từ trên xuống dưới, chúng ta chưa nghiêm chỉnhthực hiện nghị quyết, hay là sức của ta chỉ đến vậy ? Thú thật, tôi chưa hiểu nổi vì sao ta có thể bỏ ra 3-4 trăm triệu đô la cho SEA games để tạo một bứt phá về thể thao mà chưa bao giờ dám chi một khoản tiền ngang như thế để tạo một bứt phá về giáo dục đại học hay khoa học, công nghệ. Vẫn biết ngay số tiền chưa nhiều đã bỏ ra cũng chưa được sử dụng đúng đắn (như dự án đại học mà vừa qua báo chí đã đưa tin), song dù có tính đến các lãng phí đó thì đầu tư cho giáo dục đại học vẫn còn quá khiêm tốn, hoàn toàn chưa đủ mức tạo được những chuyến biến đột phá.

Xét về tiềm năng so với trình độ thực tế thì tình hình đại học khác phổ thông. Đối với giáo dục phổ thông, tôi tin rằng trình độ của đội ngũ giáo viên, điều kiện tài chính, phương tiện vật chất không thiếu, nếu quyết tâm lập lại trật tự kỷ cương, loại trừ mấy “khối u” dị dạng về thi cử, dạy thêm, và sách giáo khoa (3) , đồng thời đổi mới cách quản lý, thì khả năng đuổi kịp các nước phát triển nhất của khu vực trong thời gian tương đối ngắn là hoàn toàn hiện thực. Nhưng giáo dục đại học phức tạp hơn. Ở đây, trình độ đội ngũ giảng viên, điều kiện tài chính, vật chất đều thiếu thốn nghiêm trọng mà sự đầu tư nhân, tài, vật lực, lại dàn trải, cho nên đổi mới đại học đòi hỏi phải cố gắng đầu tư vượt bậc để tăng mạnh các nguồn lực, đồng thời thay đổi chiến lược phát triển, phương thức quản lý, thì mới có thể bứt phá lên được. Cũng như trong mọi cải cách lớn, phảithay đổi tư duy, rà soát lạicác quan niệm cơ bản về mục tiêu, nội dung, phương pháp, và tổ chức, quản lý, kiên quyết hiện đại hoá để hội nhập thế giới. Còn không, dù có cố gắng đầu tư cũng khó ngăn đại học tiếp tục tụt hậu trong nhiều năm tới.

2.Giáo dục là một hệ thống phức tạp, xử lý một khâu thì động đến nhiều khâu khác, đòi hỏi tiếp cận các vấn đề giáo dục phải có cách nhìn tổng thể. Trước đây, ta xây dựng đại học theo mô hình đại học Liên Xô, nền đại học ấy tuy nay không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, nhưng đó là một hệ thống có logic nội tại của nó. Thời gian qua ta sửa từng mặt, từng mảng mà không nhằm cả hệ thống, rốt cuộc biến nó thành ra đầu Ngô mình Sở. Điển hình là những sự lúng túng trong các vấn đề học vị, chức danh GS, PGS, xây dựng các đại học quôc gia, đại học sư phạm, đến nay vẫn chưa thể nói đã ổn cả.

Cho nên, cứ lùng bùng vướng víu, còn luyến tiếc những giá trị cũ thì sẽ thất bại. Muốn hội nhập thành công, cần có thái độ thực tế hơn : hãy nhìn ra bên ngoài, xem các nước đang làm gì, chọn lấy một mô hình tốt được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, không phải để sao chép máy móc, mà lấy đó làm căn cứ để hiện đại hoá các đại học của ta. Theo nhận thức chung trên thế giới, mô hình đó là giáo dục đại học Hoa kỳ, một hệ thống đã hình thành và phát triển gắn chặt với nhu cầu của kinh tế tri thức cho nên tương đối phù hợp nhất với xã hội hiện đại. Ngay ở Châu Âu và Nhật bản, khi nói hiện đại hoá đại học, mục tiêu họ nhắm tới cũng là một nền đại học tương đồng với Hoa kỳ. Các nước ASEAN cũng đi theo hướng đó. Không lẽ gì chúng ta muốn hội nhập mà lại tự tách ra khỏi xu thế chung. Vì vậy cần dứt khoát định hướng việc hiện đại hoá giáo dục đại học theo xu thế chung đó của thế giới và thời đại.Chỉ như thế mới có thể tranh thủ được kinh nghiệm của họ, nhanh chóng thanh toán sự tụt hậu và hội nhập thành công.

3.Hiện đại hoá giáo dục đại học thực chất là một cuộc cải cách toàn diệntừ mục tiêu, đến nội dung, phương pháp và tổ chức, quản lý, để hướng tới một nền đại học tương đồng với thế giới theo xu thế chung đã nói ở trên. Những đặc điểm chủ yếu của xu thế đại học này là (4) :

1) Nhấn mạnh năng lực sáng tạo trong mọi khâu đào tạo; đặc biệt coi trọng nghiên cứu khoa học;

2) Bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về cơ hội học tập và thành công trong học vấn;

3) Tôn trọng phát triển cá tính, mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng;

4) Mở rộng cửa đại học cho số đông, rồi cho đại bộ phận dân chúng;

5) Hết sức chú trọng tài năng, khắc phục bình quân chủ nghĩa trong đào tạo và sử dụng;

6) Xây dựng giáo dục thường xuyên và xã hội học tập;

7) Sử dụng công nghệ thông tin hiện đại vào mọi khâu giáo dục;

8) Phi tập trung hoá quản lý, trao quyền tự chủ rộng rãi cho các đại học, xây dựng hệ thống đại học hội nhập vào mạng lưới đại học thế giới.

Như vậy, hiện đại hoá giáo dục đại học là việc lớn, phải có kế hoạch toàn diện, chuẩn bị chu đáo, và phải được thực hiện mạnh mẽ, kiên quyết, theo những bước đi thích hợp . Trước mắt, để tạo điều kịên thuận lợi cho toàn bộ công cuộc hiện đại hoá, cần mạnh mẽ cải cách một số khâu then chốt tác động đến toàn bộ hệ thống đại học, ở đó đang duy trì những kiểu quản lý tập trung quan liêu cản trở sự phát triển lành mạnh của giáo dục đại học.

Thứ nhất là việc thi cử,đặc biệt là thi tuyển sinh đại học và cao đẳng . Học thì phải thi, đó là tất yếu, nhưng cần đoạn tuyệt với cách thi lạc hậu hiện nay, chuyển hẳn sang phương thức đào tạo theo tín chỉ và học phần đã được áp dụng phổ biến ở các nước tiên tiến, tăng cường kiểm tra nghiêm túc từng chặng của quá trình đào tạo thay vì tổ chức những kỳ thi theo kiểu “thi quốc gia” ở các đại học Liên xô thời trước. Riêng đối với tuyển sinh đại học và cao đẳng nên nhanh chóng bỏ kỳ thi tuyển sinh cực kỳ nặng nề, tốn kém mà bất cập, và tiến hành tuyển sinh theo hai bước: bước thứ nhất chỉ có một kỳ thi đơn giản, nhẹ nhàng, gíống như SAT (Scholastic Aptitude Test) ở Mỹ, chủ yếu bằng trắc nghiệm, mục đích chỉ để loại những người quá kém, không đủ điều kiện tối thiểu theo học bất cứ đại học nào. Qua được kỳ thi này mới vào bước thứ hai là nộp hồ sơ dự tuyển vào các đại học. Còn việc tuyển chọn thì mỗi đại học tự làm lấy, có thể thi hay làm cách nào đó, lúc nào đó, tuỳ theo điều kiện và yêu cầu của từng trường.

Thứ hai là việc đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ . Trên thế giới không ở đâu đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ nhanh, nhiều, rẻ, và ẩu như ở nước ta. Có người nghĩ rằng cứ phóng tay cấp bằng tiến sĩ là vô hại, và càng nhiều tấm danh thiếp mang các học vị cao thì càng quảng cáo tốt, càng thể hiện trình độ văn hoá, khoa học cao của đất nước. Hoàn toàn sai lầm. Thật đáng xấu hổ khi đất nước còn nghèo và lạc hậu mà đã ra đời gần như một công nghiệp đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ dỏm, với những chợ luận văn, với nghề viết thuê luận văn, với đủ thứ thủ đoạn phục vụ việc sản xuất ra những luận văn mà giá trị không hơn những mảnh giấy lộn. Ngay cả những luận văn được làm đứng đắn, thì trừ một số do những giáo sư trình độ cao hướng dẫn, còn chất lượng nói chung khá thấp. Chưa kể có trường hợp thầy làm thay đến 90% luận văn mà nghiên cứu sinh cũng không biết tận dụng thời gian học thêm kiến thức. Đó là kết quả khó tránh của ý muốn tập trung quan liêu: từ việc thi tuyển nghiên cứu sinh đến thành lập Hội đồng chấm luận văn, tổ chức phản biện các luận văn (có cả “phản biện kín”), v.v..., tất cả đều do Bộ trực tiếp quyết định, với ảo tưởng như thế sẽ bảo đảm chất lượng đào tạo. Song thực tế không như vậy, nhiều tiêu cực phát sinh mà Bộ không tài nào kiểm soát nổi, và không ai biết đã có bao nhiêu bằng TS dỏm được sản xuất thời gian qua. Để chỉnh đốn từ gốc, cần rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, số ngành được phép đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, ngành nào còn yếu thì cương quyết chấm dứt đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước ngoài. Đồng thời trả lại cho các đơn vị được phép đào tạo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệmđầy đủ từ việc tuyển nghiên cứu sinh, lựa chọn chương trình đào tạo cho đến cấp bằng. Hơn ở mọi khâu khác, ở đây cần chú trọng chất lượngvì chạy theo số lượng rất nguy hiểm cho tương lai cả giáo dục lẫn khoa học. Chẳng hạn từ nay đến 2010 mà định đào tạo 15000 tiến sĩ thì thật quá liều.

Thứ ba là việc xét phong các chức danh GS, PGS . Không ít người đã bày tỏ lo lắng trước tình trạng lạm phát GS, PGS, TS, dẫn tới tuy số lượng GS, PGS, TS của ta vượt nhiều nước, mà đại học của ta thì không lọt được vào số 60 đại học khá nhất ở khu vực. Việc đào tạo TS bừa bãi đi đôi với việc xét phong GS, PGS tuỳ tiện, lạc hậu, đã đẩy uy tín nền đại học ta xuống thấp chưa từng có (5) . Năm 1996 một vị lãnh đạo công tác học hàm huyênh hoang tuyên bố GS, PGS ta đã phong là hoàn toàn đạt trình độ quốc tế. Nay một vị lãnh đạo công tác này thừa nhận ngược lại, 80% số GS, PGS đã được phong chưa xứng đáng. Tuy nhiên, việc đó được giải thích là do ta phải căn cứ vào trình độ thực tế trong nước ! Hoá ra GS, PGS, TS của ta là “hàng nội”, phải theo tiêu chuẩn “nội”, không thể theo tiêu chuẩn quốc tế, vì tiêu chuẩn này trên trời so với ta. Điều đáng nói là trong khi công nhận những giá trị khoa học đáng ngờ thì tiêu chuẩn “nội” ấy lại gạt ra nhiều người trẻ có năng lực. Với tầm nhìn thiển cận như vậy, tôi chỉ e rồi đây đại học VN sẽ đến lúc tụt dốc không phanh. Nguyên nhân tình trạng đáng lo đó lại cũng do tư duy quản lý: trong xã hội ta, hễ một cơ quan được lập ra để phụ trách một lĩnh vực công tác gì thì y như là nó phải bo bo ôm giữ hết mọi quyền, dù năng lực và trình độ bất cập. Mà có gì khó hiểu đâu: GS, PGS là những chức vụ cụ thể ở một đại học thì chỉ đại học đó mới biết rõ nên chọn GS, PGS theo cách nào phù hợp nhất với yêu cầu của mình. Lẽ ra Hội đồng chức danh chỉ nên tập trung lo sao cho GS, PGS của bất kỳ đại học nào cũng đạt một trình độ tối thiểu theo chuẩn mực quôc tế, việc gì phải dành quyền trực tiếp làm việc tuyển chọn GS, PGS, trong khi thành viên Hội đồng đâu phải là chuyên gia giỏi nhất, và toàn năng đến mức quán xuyến được chuyên môn của từng đại học ?

Thứ tư là chính sách sử dụng giảng viên . Hiện nay có điều lạ là các thầy dạy đại học của ta tuổi trung bình cao, trình độ khoa học thấp, nhiều người đã hàng chục năm không có thói quen cập nhật kiến thức, mà phải dạy 25-30 giờ một tuần là phổ biến, thì tôi thật sự không hiểu ta định xây dựng đại học kiểu gì đây. Sự thật hiển nhiên là khi đồng lương quá thấp buộc ai cũng phải lo mưu sinh, thì đâu còn thì giờ và tâm trí chăm lo công việc chính của mình. Vì vậy, chừng nào còn chế độ lương kỳ quặc này, lương không ra lương, thì sẽ còn nhiều thầy không ra thầy, và đại học sẽ còn nhếch nhác như một kiểu “đại học để học đại”. Ai cũng biết dạy quá nhiều thì làm sao nghiên cứu khoa học, thế nhưng theo báo cáo vẫn có 50% số giảng viên đại học tham gia nghiên cứu khoa học thì chắc chắn phải có nhiều công trình nghiên cứu theo tiêu chuẩn “nội”, tức là không đạt chuẩn mực quôc tế. Vài con số để thấy rõ sự tụt hậu của ta: cả nước ta trong 5 năm 1998-2002 chỉ có 1629 công trình khoa học được công bố trên quôc tế, so với Thái lan là 6925 công trình, mà trước đây 30 năm Thái lan có hơn gì ta, thậm chí có phần kém ta, đủ biết trong 30 năm qua ta đã tiến hay thoái như thế nào. Riêng năm 2002 cả nước ta chỉ có 368 công trình mà khoảng 1/6 trong số đó theo tôi biết, đã là của một viện nghiên cứu chuyên ngành, vậy còn lại cho các đại học và các chuyên ngành khác được bao nhiêu ?

Đó là mấy vấn đề nhức nhối nhất bộc lộ rõ sự yếu kém, tụt hậu của giáo dục đại học, cần có biện pháp chấn chỉnhngay để mở đường tiến lên hiện đại hoá toàn diện. Chừng nào còn chưa chấn chỉnh được các khâu công tác đó thì giáo dục đại học VN còn là niềm tủi hổ của thế hệ chúng ta.


(1) GDP của VN chỉ vào khoảng 40 tỉ USD

(2) Chẳng hạn Singapore , HongKong, Hàn Quốc (lương giáo sư đại học ở HongKong cao nhất thế giới)

(3) Xem bài “Ba khối u dị dạng trên cơ thể giáo dục”, báo TIA SÁNG số 2, tháng 2, 2004

(4) Xem bài “Hiện đại hoá giáo dục để đi vào kinh tế tri thức”, báo VĂN NGHỆ số 41 (13/10/2001)

(5) Xem bài “Đã thật sự công bằng, hợp lý chưa ?”, báo NGƯỜI LAO ĐỘNG, cuối tuần 17/5-18/5/2003

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…