Georges Charpak với việc giảng dạy khoa học ở trường tiểu học
Nhà vật lý tài năng
Georges Charpak sinh năm 1924, tại một thị trấn nhỏ ở Ucraina, giáp giới với Ba Lan, trong một gia đình gốc Do Thái. Năm 1931, để tránh chính sách bài Do Thái, khi lên 7 tuổi, ông phải theo gia đình rời bỏ quê hương sang cư trú ở Pháp. Tốt nghiệp Trung học, lúc đầu ông học trường Đại học Mỏ, nhưng sau cảm thấy không thích hợp, ông chuyển sang ngành vật lý hạt nhân. Ông đã làm luận văn Tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Frédéric Joliot - Curie, nhà bác học Pháp đã cùng với vợ là Irène Joliot - Curie được tặng giải thưởng Nobel năm 1935 vì đã phát minh hiện tượng phóng xạ nhân tạo và lần đầu tiên chế tạo ra chất đồng vị phóng xạ nhân tạo, ngày nay đang được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp, nông nghiệp,v.v…
Sau một thời gian nghiên cứu tại Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS – Centre National de Recherche Scientifique), ông sang làm việc tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (Centre Européen de Recherche Nucléaire – CERN), một trung tâm nghiên cứu về vật lý năng lượng cao lớn nhất thế giới. Ông ở đấy suốt 32 năm, từ ngày 1-5-1959 cho đến năm 1991 (67 tuổi) thì nghỉ hưu và trở về Paris , nơi ông đã từng sống và làm việc.
Trong thời gian dài làm việc ở CERN, ông đã tham gia nhiều thí nghiệm lớn cùng với nhiều người khác như Leon Lederman, được giải thưởng Nobel năm 1988, sau này là giám đốc Fermilab, Trung tâm nghiên cứu vật lý năng lượng cao của Mỹ ở Chicago; Richard Garwin, sau này là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, Cố vấn khoa học của Tổng thống Mỹ… Riêng Georges Charpak đã phát minh ra “buồng đa tuyến” (multiwire chamber) và phát minh này đã dẫn ông đến giải thưởng Nobel về Vật lý năm 1992. Chiếc “buồng đa tuyến” này không những đã trở thành một công cụ quý báu đối với các nhà nghiên cứu về vật lý các hạt cơ bản thực nghiệm mà ngày nay còn đang bắt đầu được nghiên cứu ứng dụng trong các bệnh viện để giảm đáng kể liều lượng phóng xạ khi chiếu hay chụp X - quang. Đây có thể nói là một phát minh mang tính nhân đạo cao.
Và cống hiến lớn nhất cho xã hội
Ngày 8-3-2009, Georges Charpak tròn 85 tuổi. Nhân dịp này, trả lời phỏng vấn tạp chí CERN Courier của Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu, ông cho biết: “12 năm qua tôi tham gia vào một dự án giáo dục rất lớn với tên gọi là “ Bàn tay nặn bột”. Đây chắc chắn là cống hiến lớn nhất của tôi đối với xã hội”.
Theo Georges Charpak, “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dựa trên ý tưởng: học sinh học khoa học thông qua thí nghiệm do chính các em trực tiếp làm.
Học sinh trường tiểu học Lô-mô-nô-xốp (Hà Nội) làm thí nghiệm về tỷ trọng của các chất và nước mặn. Ảnh: www.vis.edu.vn |
Kể từ dịp khai giảng vào tháng 9 năm 2000, Bộ quốc gia giáo dục Pháp đã cho phép tất cả các trường tiểu học trong nước đổi mới việc giảng dạy khoa học theo tinh thần của phong trào “Bàn tay nặn bột”. Các em học sinh không còn ngồi hàng giờ trên ghế nghe thầy cô giáo giảng bài một cách thụ động mà cả lớp chia thành nhóm nhỏ, dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo, tự mầy mò thí nghiệm với các phương tiện đơn giản. Năm sáu em vây quanh một chậu thau nước để giữa lớp. Một em nói: “Cái gì nặng thì chìm”. Em khác phản bác lại: “Không hẳn thế”. Em lấy cục bột vo viên, đập bẹp ra trong lòng bàn tay rồi vén các bờ lên và thả xuống nước. Cục bột nổi như một chiếc thuyền thúng. Thế là em bé đã chứng minh được định lý về “sức đẩy Archimède” bằng thực nghiệm, tuy rằng ở tuổi của em thì chưa thể hiểu lý thuyết đó được. Có lẽ thí nghiệm đơn giản này đã minh họa cho cái tên gọi của phong trào “Bàn tay nặn bột”.
Các trường học ở lưu vực sông Amazone (Nam Mỹ) bây giờ cũng bắt đầu áp dụng phương pháp. Georges Charpak vừa nhận được một giải thưởng của Chính phủ Mêhicô cùng với Leon Lederman (giải thưởng Nobel về Vật lý năm 1988, người đề xướng phong trào “Nhúng tay vào” (Hands on) ở Mỹ, giống như phong trào “Bàn tay nặn bột” ở Pháp) vì đã triển khai phương pháp dạy học tiên tiến ở đất nước Trung Mỹ này.
Vào cuối năm 1997, nhân Hội nghị thượng đỉnh khối Pháp ngữ họp tại Việt Nam, trường Đại học quốc gia Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học, tôi có được tham dự và dịch cho GS Pierre Léna, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, người trợ lý đắc lực nhất cho Georges Charpak trong phong trào “Bàn tay nặn bột”. GS Pierre Léna đã tặng tôi một cuốn sách của Georges Charpak nhan đề “ Bàn tay nặn bột - Khoa học ở trường Tiểu học” (La Main à le Pâte - Les Sciences à l’école primaire). Tôi đã dịch cuốn sách này ra tiếng Việt, được Nhà xuất bản giáo dục xuất bản năm 1999. Tiếp theo, GS Pierre Léna có gửi cho tôi 7 cuốn trong bộ sách “ Những hạt giống khoa học” (Les Graines de Sciences), nhằm phục vụ cho việc giảng dạy khoa học ở trường Tiểu học. Tôi đã dịch xong toàn bộ bảy cuốn, sáu cuốn đã ra đời liên tiếp từ năm 2002 đến tháng 2 - 2009, cuốn cuối cùng đã dịch xong và đưa đến nhà xuất bản giáo dục.
Phong trào “Bàn tay nặn bột” được sự bảo trợ của Viện Hàn lâm khoa học Pháp. Một nhóm nhỏ các viện sĩ được tổ chức để hỗ trợ cho phong trào này. Cách đây gần 2 năm, tháng 5-2007, một thành viên của nhóm này là viện sĩ Pierre Joliot - Curie, con trai nhà bác học Frédéric Joliot – Curie và cháu ngoại ông bà Pierre và Marie Curie có sang Việt Nam để giới thiệu phong trào “Bàn tay nặn bột”. Tôi có được nghe ông nói chuyện tại Trung tâm văn hoá Pháp. Ông cho biết hiện nay nhiều nước trên khắp thế giới như Mêhicô, Côlômbia, Hungari, Thái Lan, Trung Quốc,v.v… đang học tập kinh nghiệm của Pháp để áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong hoàn cảnh nước mình. Cuốn sách “ Bàn tay nặn bột - Khoa học ở trường Tiểu học” của Georges Charpak và bộ sách “ Những hạt giống khoa học” đã được dịch ra ở Trung Quốc và ở một số nước khác.
Trong một hội nghị tập hợp nhiều nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới được tổ chức tại Rôma (Italia) từ 19 đến 21-11-2001, đã ra một bản tuyên bố, trong đó có những câu như sau: “ Việc bảo đảm một sự giáo dục thích hợp về khoa học cho mỗi trẻ em trên thế giớivừa là một nhu cầu và vừa là một thách thức”. “Cần chú ý ở mức cao nhất đến sự giáo dục khoa học ở trường Tiểu học và Trung học, bao gồm cả trẻ em có nhu cầu đặc biệt”. “Cần dùng mọi biện pháp để nói lên sự cấp bách của tình hình cho các Chính phủ. Chỉ có các Chính phủ mới có khả năng đáp ứng quy mô to lớn của vấn đề, cung cấp các phương tiện cần thiết và thực thi các chính sách thích hợp”.
Tại sao một nhà bác học lớn như Georges Charpak lại quan tâm đến giáo dục tiểu học?
Trả lời câu hỏi này của tạp chí La Recherche xuất bản ở Pháp, Georges Charpak đã nói như sau: “ Thay đổi khoa học ở trường Tiểu học là một đòn bẩy để biến đổi xã hội”.
Giai đoạn học Tiểu học là một giai đoạn hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi người. Đây không những là tuổi học đọc, học viết, học làm tính mà còn là tuổi định hình nhân cách để các em lớn lên có thể trở thành những công dân tốt, những người có ích cho xã hội. Muốn thanh thiếu niên tránh được thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội, không gì bằng bồi dưỡng lòng yêu khoa học cho các em ngay từ lúc các em bước chân vào trường Tiểu học.