Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 22/11/2007 00:23 (GMT+7)

Diễn đàn sử học năm 2007: Sử học trước nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc - tổng kết và kiến nghị

Ban tổ chức nhận được 30 báo cáo gồm báo cáo do Ban tổ chức mời viết theo yêu cầu của Hội thảo và những báo cáo do các nhà khoa học gửi đến tham gia hội thảo với những suy nghĩ, trăn trở và nhiệt tâm đối với di sản văn hoá dân tộc. Tham dự Hội thảo có hơn 160 nhà khoa học và đại diện các bộ, ngành, các hội liên quan, đại diện một số Sở văn hoá thể thao và du lịch tỉnh/ thành phố, Trung tâm/ Ban quản lý các di sản văn hoá thế giới của Việt Nam và một số khách mời.

Sau lời khai mạc của GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội KHLSVN, báo cáo đề dẫn của PGS Phạm Mai Hùng thay mặt Ban tổ chức, Hội nghị đã nghe báo cáo tóm tắt của 11 tác giả.

2. Hội thảo đạt sự nhất trí cao về trách nhiệm của giới sử học nói chung cũng như các cơ quan nghiên cứu về lịch sử và văn hoá, của Hội KHLSVN. Trách nhiệm trước hết của sử học là phải góp phần tích cực nhất trong nghiên cứu kho tàng di sản văn hoá dân tộc và từng di sản có giá trị, trên cơ sở đó cùng với cơ quan chức năng đề xuất xếp hạng và hướng bảo tồn, phát huy giá trị di sản.

Di sản văn hoá là sản phẩm của lịch sử nên chính lịch sử là cơ sở khoa học quan trọng bậc nhất để nhận thức về quá trình hình thành di sản và những đặc điểm chung của hệ thống di sản văn hoá dân tộc cũng như từng di sản cụ thể. Từ thời cổ đại trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã hình thành ba trung tâm văn minh gắn liền với những nhà nước sơ khai đầu tiên. Đó là trung tâm văn hoá Đông Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc, trung tâm văn hoá Sa Huỳnh - Chăm cổ với nước Lâm Ấp, trung tâm văn hoá Óc Eo với nước Phù Nam. Ba dòng lịch sử - văn hoá đó qua tiến trình lịch sử đã hội nhập thành lịch sử - văn hoá Việt Nam mà dòng Đông Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc giữ vai trò chủ lưu. Như vậy di sản văn hoá Việt Nam cần được nhận thức là tổng thể các di sản văn hoá từ thời tiền sử cho đến ba trung tâm văn hoá thời cổ đại và tất cả các di sản đã tạo thành trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay qua các thời kỳ lịch sử cho đến ngày nay. Thời Pháp thuộc, một mặt nhân dân kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành lại độc lập thống nhất đất nước, mặt khác cũng ghi nhận những di sản văn hoá của thời kỳ này, trong đó có cả những di sản kiến trúc theo nghệ thuật Pháp hay phương Tây và kết hợp Đông - Tây có giá trị. Thời kỳ cách mạng và kháng chiến gần đây để lại nhiều di sản vật thể và phi vật thể kết tinh những giá trị truyền thống và cách mạng.

Việt Nam từ khi lập quốc đến nay là quốc gia đa tộc người, hiện nay có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có kho tàng di sản văn hoá riêng, đóng góp vào kho tàng chung của di sản văn hoá của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam . Câu trúc đa tộc người tạo nên tính thống nhất trong sự đa dạng, phong phú của di sản văn hoá dân tộc, trong đó dân tộc đa số chiếm trên 86% dân số giữ vai trò trung tâm đoàn kết, tập hợp các thành phần dân tộc.

Thiên nhiên Việt Nam cũng rất đa dạng về địa hình, địa mạo, thuỷ văn, môi trường, sinh thái, tạo thành nhiều vùng địa - văn hoá vừa mang đặc trưng chung của cả nước, vừa biểu thị những sắc thái riêng của từng địa phương. Những đặc điểm của thiên nhiên cũng là một cơ sở tạo thành di sản văn hoá và để lại dấu ấn đậm trong di sản văn hoá.

Lịch sử Việt Nam kể từ khi lập quốc đến nay đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm rất ác liệt. Chiến tranh cùng mặt khắc nghiệt của thiên nhiên cũng tác động mạnh đến sự bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, không ít di sản đã bị huỷ hoại hay tàn phế vì sự tàn phá của thiên nhiên và giặc ngoại xâm.

Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về lịch sử văn hoá nhưng vẫn còn vắng thiếu công trình nghiên cứu tổng thể về hệ thống và cấu trúc cùng những đặc trưng của di sản văn hoá dân tộc. Đây là một cơ sở khoa học quan trọng để nhận thức đầy đủ về si sản văn hoá dân tộc cũng như xây dựng chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc.

Giới sử học không chỉ có trách nhiệm nghiên cứu tổng thể di sản văn hoá dân tộc mà còn phải nghiên cứu từng loại hình và từng di sản cụ thể trong từng địa phương, góp phần cùng với cơ quan chức năng xác định giá trị của di sản để từ đó đề xuất kế hoạch xếp hạng cũng như bảo tồn và phát huy. Đối với tổ chức của Hội KHLSVN, trách nhiệm này chủ yếu thuộc về các Hội thành viên cấp tỉnh/ thành phố. Dĩ nhiên đối với những di sản có giá trị cần có sự phối hợp giữa Hội KHLSVN với các cơ quan khoa học thuộc những chuyên ngành liên quan ở địa phương và trung ương.

Trong quá trình xếp hạng và bảo tồn, phát huy giá trị di sản mà trách nhiệm thuộc về các cơ quan nhà nước, Hội KHLSVN vẫn tiếp tục thực hiện trức năng tư vấn, giám định và phản biện mà Đảng và Chính phủ đã giao cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp của các nhà khoa học và công nghệ. Đây là một chức năng quan trọng đòi hỏi TƯ Hội cũng như các Hội cấp tỉnh/ thành phố phải hết sức thận trọng, nghiên cứu nghiêm túc để bảo đảm tính hợp pháp, tính thuyết phục của tư vấn, giám định hay phản biện. Trong thời gian qua, Trung ương Hội và một số thành viên đã phát huy tốt chức năng này, đưa ra những ý kiến tư vấn, giám định và phản biện trong bảo tồn di sản văn hoá được dư luận xã hội đồng tình, được chính quyền và các cơ quan chức năng chấp thuận, làm tăng thêm uy tín và ảnh hưởng của Hội trong xã hội.

Góp phần nghiên cứu xác định giá trị các di sản văn hoá là trách nhiệm hàng đầu của giới sử học gồm các cơ quan nghiên cứu trong hệ thống chính trị nhà nước và Hội KHLS với cương vị tổ chức xã hội nghề nghiệp của cả giới sử học. Tôi xin lưu ý Hội Khoa học lịch sử Việt Nam hiện nay bao gồm các chuyên ngành sử học, khảo cổ học và bảo tàng học là những chuyên ngành giữ vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu và xác định giá trị các di sản văn hoá.

3. Trong hội thảo, nhiều tham luận và phát biểu đánh giá thực trạng của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc. Hội thảo không đi sâu vào từng di sản mà qua các di sản để đưa ra nhận xét tổng quát về thực trạng này.

Chúng ta nhất trí ghi nhận những tiến bộ và thành tựu của công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc trong kỳ thời đổi mới, nhất là từ khi “Luật di sản văn hoá” được thực thi. Công việc bảo tồn và phát huy giá trị của những di sản văn hoá được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới như Cố đô Huế, Phổ cổ Hội An càng ngày càng rút được nhiều kinh nghiệm và đạt nhiều kết quả tốt đẹp, tuy vẫn đứng trước nhiều thách thức phải tiếp tục giải quyết. Một số di tích lịch sử văn hoá, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học cũng được quan tâm hơn trước. Di sản văn hoá phi vật thể cũng được chú ý nghiên cứu và sưu tầm, phục hồi nhiều hơn, kể cả của dân tộc Việt và các dân tộc thiểu số, như múa rối nước, hát ca trù, các loại lễ hội dân gian, âm nhạc các dân tộc, nhã nhạc cung đình, môi trường văn hoá cồng chiêng, sử thi các dân tộc Tây Nguyên… Trong bảo tồn di sản, quan niệm gắn kết di sản vật thể với di sản phi vật thể cũng cần được coi là một tiến bộ trong nhận thức và trong phát huy giá trị của di sản, làm tăng thêm sức sống cho di sản. Sự đầu tư của Nhà nước cho công việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá cũng càng ngày càng tăng, tuy chưa đáp ứng đủ yêu cầu của một khối lượng lớn các di tích.

Tuy nhiên bức tranh tổng thể của công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bên cạnh mảng sáng vẫn còn nhiều mảng mờ và cả điểm đen. Gần như trên qui mô cả nước, nhiều di tích vẫn tiếp tục xuống cấp, thậm chí bị lấn chiếm, bị xâm hại và có trường hợp bị huỷ hoại. Nguyên nhân nhiều nhưng tựu trung có thể qui vào mấy nhân tố sau đây:

- Sự tàn phá của thiên nhiên như lũ lụt, bão táp, mối mọt, độ nóng và ẩm cao…

- Hậu quả tàn phá của chiến tranh.

- Tình trạng lấn chiếm di tích đã bị hạn chế nhưng vẫn xảy ra và những di tích bị lấn chiếm vẫn chưa được xử lý, giải toả đầy đủ.

- Chính quyền địa phương và cơ quan chức năng chưa nghiêm chỉnh thực thi Luật di sản văn hoá, để có một số công trình xây dựng hiện đại phá huỷ di tích đang bảo tồn trong lòng đất.

- Công việc trùng tu di tích, nhất là di tích kiến trúc nghệ thuật và quân sự không tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bảo tồn tối đa bộ phận nguyên gốc nên có một số đền, chùa hay di tích thành luỹ gần như xây dựng lại làm mất giá trị đích thực của di sản.

- Công việc xã hội hoá sự nghiệp bảo tồn di tích mà thiếu sự hướng dẫn và kiểm tra chặt chẽ của ngành văn hoá cũng dẫn đến sự biến dạng, thậm chí phá huỷ di tích.

- Nhân dân ta rất yêu thích lịch sử, quý trọng di sản văn hoá nhưng do thiếu hiểu biết về nguyên tắc và yêu cầu của công tác bảo tồn, tôn tạo nên nhiều khi cũng có những hành vi xâm hại di tích.

- Hoạt động càng ngày càng trắng trợn, táo bạo của bọn săn lùng đồ cổ như đào mộ tìm đồ tuỳ táng, ăn cắp đồ thờ trong các đền, chùa…

- Luật di sản văn hoá không được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân và hành động vi phạm phát luật không bị nghiêm trị.

Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đã liên tục nêu lên nhiều trường hợp các di tích lịch sử văn hoá bị xâm hại hay bị phá huỷ, nhiều công trình trùng tu, tôn tạo di tích thực hiện sai nguyên tắc và pháp luật. Nhưng rất tiếc là chính quyền địa phương và cơ quan chức năng giải quyết không kiên quyết và dứt điểm. Cho đến nay, chưa một vi phạm luật di sản văn hoá nào bị truy tố trách nhiệm trước pháp luật.

Hội thảo nêu lên thực trạng bảo tồn di sản trên đây như một hồi chuông báo động đối với cơ quan chức năng và trước xã hội để cùng quan tâm tìm biện phá hữu hiệu nhằm khắc phục và nhanh chóng chấm dứt tình trạng vi phạm di sản văn hoá.

Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển được nhiều người nêu lên như một mâu thuẫn không thể dung hoà được. Có người coi đó là tình trạng xung đột, thậm chí có người coi là chiến tranh mang tính loại trừ lẫn nhau, được cái này thì mất cái kia. Trên thực tế có tình hình đó, hơn nữa tình hình khá phổ biến hầu khắp cả nước. Cũng như tình hình đó, có người cho rằng đặt trong bối cảnh đất nước còn nghèo, đời sống của nhân dân còn thấp thì cần ưu tiên cho sự phát triển kinh tế xã hội và đành phải hi sinh một số di sản văn hoá. Nhận thức mối quan hệ giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế xã hội như vậy là sai lầm, hơn nữa còn dẫn đến chỗ tự cho phép huỷ hoại một bộ phận di sản văn hoá dân tộc. Trên nguyên lý về bản chất, bảo tồn di sản và phát triển kinh tế xã hội không mâu thuẫn mà trái lại, còn hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Di sản văn hoá gắn liền với con người là động lực nội tại của sự phát triển bền vững. Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Chính di sản văn hoá được bảo tồn và phát huy tốt sẽ tác động một cách sinh động và thấm đậm nâng cao hiểu biết về lịch sử, văn hoá của cộng đồng cư dân, tiếp nhận các truyền thống dân tộc, xây đắp bản lĩnh con người Việt Nam. Đấy là vốn liếng tinh thần vô cùng quan trọng mà thế hệ hôm nay thừa kế các thế hệ tổ tiên từ ngàn xưa để lại và chỉ trên cơ sở đó mới có thể giữ vững vai trò bản sắc dân tộc, mở cửa đón nhận những thành tựu mới của thời đại, của thế giới. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập thế giới, con người thấm nhuần những giá trị của di sản văn hoá dân tộc là động lực của sự phát triển, là cơ sở để gìn giữ bản sắc dân tộc, để tiếp nhận, thâu hoá những thành tựu và giá trị của văn hoá thế giới. Hơn nữa, di sản văn hoá phát huy vào lĩnh vực kinh tế du lịch, dịch vụ là một tài nguyên vô giá có thể đưa lại những lợi ích kinh tế. Trái lại sự phát triển kinh tế, xã hội lại tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy công việc bảo tồn di sản văn hoá.

Sự mâu thuẫn hay xung đột giữa bảo tồn và phát triển đang xảy ra khá nặng nề hiện nay, chủ yếu là do nhận thức và cách xử lý sai của chúng ta, nhất là các cấp quản lý và cơ quan chức năng. Tất nhiên khi nói bảo tồn di sản văn hoá không có nghĩa là bảo tồn vô điều kiện, bảo tồn nguyên trạng mọi di sản văn hoá. Những di sản văn hoá trải qua bão tố và thách thức còn được bảo tồn cho đến nay, thế hệ chúng ta cần trân trọng và có trách nhiệm phải nghiên cứu và bằng nhiều phương thức bảo tồn, vừa phát huy trong cuộc sống ngày nay, vừa lưu tồn lại cho các thế hệ mai sau. Trong di sản đó, cần có sự phân loại theo loại hình và cấp độ giá trị khác nhau. Đối với di sản vật thể, có những di tích không có giá trị, sau khi nghiên cứu lập hồ sơ khoa học đầy đủ rồi đưa hiện vật cùng một bộ phận di tích hay dựng mô hình vào bảo tàng, sau đó giải phóng mặt bằng cho sự phát triển, có thể là xây dựng công trình hay mở mang giao thông… Đấy cũng là một phương thức bảo tồn. Còn những di sản có giá trị thì cần xếp hạng theo Luật di sản văn hoá và thực hiện các giải pháp bảo tồn lâu dài, đồng thời có kế hoạch phát huy giá trị di sản trong nhân dân và cả trong hoạt động du lịch, dịch vụ. Những va chạm giữa bảo tồn và phát triển hiện nay là do khi lập qui hoạch phát triển hay dự án xây dựng công trình mới, không tính đến yêu cầu bảo tồn di tích đang tồn tại trên mặt đất hay tiên liệu khả năng tồn tại di tích trong lòng đất trên những địa bàn vốn là những trung tâm chính trị, văn hoá trong lịch sử. Không loại trừ có những di tích bất ngờ phát hiện khi đào móng xây dựng công trình, trong trường hợp này phải nghiêm chỉnh thực hiện luật di sản văn hoá, nghĩa là phải tiến hành khai quật khảo cổ học để nghiên cứu, xác định đúng giá trị di sản và trên cơ sở đó tìm giải pháp xử lý thỏa đáng.

Nhân danh cần uư tiên cho sự phát triển, tạo nên tình trạng xung đột giữa bảo tồn và phát triển để phá huỷ một số di tích là xu hướng đang phát triển hiện nay, bộc lộ nhận thức hạn chế và thiếu trách nhiệm đối với di sản văn hoá. Có những sai lầm có thể sửa chữa được, nhưng di sản văn hoá một khi bị phá huỷ là mất mát vĩnh viễn không thể khắc phục được. Dù có ý thức hay vô thức, sự huỷ hoại những di sản văn hoá có giá trị cần được coi là tội lỗi đối với dân tộc và đối với lịch sử. Cho đến nay, hầu như chưa thấy sự bảo tồn di sản văn hoá ngăn cản sự phát triển, trái lại sự phát triển không tuân thủ Luật di sản văn hoá và quán triệt trách nhiệm bảo tồn giá trị di sản dẫn đến sự huỷ hoại xâm hại di sản đang xảy ra ở nhiều nơi.

4. Qua các báo cáo và thảo luận, Hội thảo thống nhất đề xuất mấy kiến nghị sau đây:

4.1 Lịch sử đã tạo thành và để lại một di sản văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú, đa dạng biểu thị sức sống, năng lực sáng tạo bản sắc dân tộc. Con người gắn liền với di sản đó luôn luôn là động lực nội tại của sự phát triển và phục hưng dân tộc. Cần sớm có đề án nghiên cứu toàn diện và sâu sắc tổng thể di sản văn hoá đó để làm cơ sở khoa học cho chiến lược bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc cùng những định hướng bảo tồn và phát huy phù hợp. Trong bảo tồn từng di sản cần coi trọng và đầu tư thích đáng hơn công tác nghiên cứu cơ bản để nhận thức sâu sắc đặc điểm, giá trị của di sản làm cơ sở khoa học xác lập định hướng, xây dựng kế hoạch và chọn giải pháp bảo tồn phù hợp.

4.2 Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc đã đạt một số tiến bộ và thành tựu nhưng vẫn đang đứng trước một thực trạng gây nhiều lo âu cho xã hội. Nhiều di tích lịch sử văn hoá vẫn tiếp tục xuống cấp và bị xâm lấn, phá huỷ bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đề nghị Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch. Cục di sản văn hoá cần kiểm tra toàn bộ công tác bảo tồn, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di sản để đưa ra sự đánh giá toàn diện, khách quan, trung thực và đặc biệt quan trọng là rút kinh nghiệm, tìm nguyên nhân để khắc phục. Một số hành động phá huỷ hay xâm hại di sản, vi phạm nghiêm trọng Luật di sản văn hoá cần được truy cứu trách nhiệm hình sự để nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật.

4.3 Công tác xã hội hoá việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc cần có sự chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật và kiểm tra chặt chẽ để chấm dứt tình trạn trùng tu, tôn tạo sai nguyên tắc dẫn đến chỗ phá huỷ hay xâm hại di sản.

4.4 Đề nghị Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch coi trọng hơn nữa kế hoạch đào tạo cán bộ và chuyên gia cho ngành bảo tồn, trùng tu, tu bổ di tích lịch sử văn hoá: phối hợp với các bộ, ngành, liên quan nghiên cứu tính đặc thù và đưa ra những chỉ tiêu, định mức phù hợp với ngành này.

4.5 Luật di sản văn hoá sau 7 năm thực hiện đã phát huy nhiều tác dụng tích cực nhưng cũng bộc lộ không ít nội dung bất cập và có những chỗ hở ảnh hưởng đến hiệu quả bảo tồn và phát huy di sản, nhất là trong điều kiện đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp, hoá hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Đề nghị Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch tổ chức rút kinh nghiệm, lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan chức năng, giới khoa học để kiến nghị Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội sửa đổi và bổ sung.

4.6 Hội KHLSVN trong chức năng và trách nhiệm của mình sẵn sàng hợp tác chặt chẽ với Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch, với Cục di sản văn hoá và với Hội Di sản văn Hoá Việt Nam trong công tác nghiên cứu di sản văn hoá dân tộc cũng như trong nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.