Đi tìm nhân vật M. trong nhật ký Đặng Thùy Trâm
Chuyện tình "nén" trong sổ nhỏ
Một hôm chúng tôi đến mời gia đình Nhà thơ Khương Hữu Dụng đến dự triển lãm. Phần trưng bày có giới thiệu một số kỷ vật của Liệt sĩ Khương Thế Xương - người con trai cả của Nhà thơ đã hy sinh anh dũng trong trận đánh đồn Tú Thủy - An Khê năm 1953. Đây là những kỷ vật gia đình trao tặng cho Bảo tàng từ những ngày đầu thành lập, năm 1959.
Chị Khương Băng Kính, con gái Nhà thơ tiếp chúng tôi. Chị đang miệt mài đọc, ghi chép từ các cuốn sổ nhỏ cũ, sờn của người anh trai thứ hai. Nhân câu chuyện, chị đọc cho chúng tôi nghe vài bài thơ, đôi dòng tâm sự, ghi chép từ chiến trường của anh.
Chúng tôi ngỏ ý xin những kỷ vật kia. Chị tần ngần. Sau khi xin ý kiến của các anh chị em trong gia đình, hôm sau chị trao cho chúng tôi bài thơ “Thay trả lời một bức thư”, ký tên Nguyên Mộc.
M. là chữ đầu của chữ Mộc. Nguyên Mộc tức Đỗ Mộc, là bút danh của Khương Thế Hưng ở chiến trường. Trong nhiều bức thư anh viết cho đồng đội, cho Thùy, anh đều ký tên như vậy. Chị đọc bài thơ:
Dòng máu đã đổ ra
Không bao giờ lấy lại
Tình yêu đã trao rồi
Không thuộc về anh nữa
Cả hai đều hiến dâng.
Hiến dâng Tổ quốc dòng máu trẻ trung
Hiến dâng em tình yêu nồng thắm
Không bao giờ anh quên
Lương tâm người cầm súng
Vì niềm vui đất nước
Anh sẵn sàng hy sinh
Vì hạnh phúc của em
Anh chịu phần đau khổ
Riêng mình
Chỉ vậy thôi!
Em ơi!
Đừng nói nữa!
Mà lòng anh đau.
Nguyên Mộc.
Bài thơ viết gửi Thùy năm 1967, sau khi hai người gặp nhau. Trên trang giấy pơluya gập đôi, nửa sau viết nháp còn nửa chép lại, nét chữ cứng cỏi và khoáng đạt. Bài thơ ẩn chứa một tâm sự sâu xa của anh mà không phải ai cũng hiểu hết, kể cả Thùy.
Câu chuyện tình yêu của họ nén chặt trong những cuốn sổ nhỏ. Một người lính ở phía bên kia lấy được cuốn nhật ký của người con gái sau khi chị hy sinh.
Cảm động trước tình yêu và lẽ sống của người nữ Việt cộng qua những dòng chữ như có lửa trong cuốn nhật ký, thay vì đốt đi, người lính đó đã giữ lại đưa về Mỹ để rồi sau gần 40 năm mới có dịp công bố.
Còn nửa kia của người con trai, anh chôn chặt những suy nghĩ của mình tận đáy lòng, mang theo về cõi vĩnh hằng mà khi sống anh không một lần thổ lộ cùng ai, nếu như cô em gái của anh không lật lại những trang anh viết.
"Anh chỉ biết đánh Mỹ"
Năm 1966, Thùy tốt nghiệp Đại học Y khoa, xung phong vào chiến trường Quảng Ngãi, nơi anh đang chiến đấu. Trong trái tim của cô bác sĩ miền Bắc đã khắc đậm hình bóng người chiến sĩ Giải phóng từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Anh tài hoa, có thể nói toàn diện về mọi mặt. Anh viết văn, làm thơ, chơi đàn, có giọng hát rất tình cảm, thổi sáo hay và chơi các môn thể thao, thứ gì anh cũng giỏi.
Chính vì lẽ đó, theo tiếng gọi của Tổ quốc, của tình yêu, Thùy đã vào chiến trường tìm anh sau 5 năm xa cách trong chờ đợi và hy vọng. Song Thùy không hiểu được sự im lặng của anh. Thùy đã nghĩ hay là anh đã có người yêu khác, hay là…? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra mà không có câu trả lời cho Thùy.
![]() |
Rồi anh lên tiếng trước: “… Anh sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của riêng mình để Thùy tìm một hạnh phúc đảm bảo hơn, trọn vẹn hơn…”.Anh nghĩ rằng mình còn phải chiến đấu cho đến khi miền Nam được giải phóng và rất có thể anh sẽ không trở về sau cuộc chiến này…
Đi suốt cả dặm đường dài hàng nghìn km, mặc dù chưa hề hứa hẹn gì với nhau thật rõ ràng, nhưng Thùy vẫn hy vọng, chờ đợi để đón nhận những gì khác hơn thế… Anh nhìn vào xa xăm với những suy nghĩ bất tận về cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt.
Còn Thùy, lặng yên không khóc mà khe khẽ hát bài "Xa khơi", bài hát cô từng hát cho anh nghe ở Hà Nội thủa nào. Đọc nhật ký của Đặng Thùy Trâm khi viết về M. mỗi chúng ta đều cảm thấy tình yêu, nỗi buồn thương day dứt và trách giận, không phải không có lý. Chị đã thổ lộ những suy nghĩ thầm kín của mình với những người thân.
Một lần út lớn, em gái của Khương Thế Hưng nhận thư Thùy từ miền Nam gửi ra. Trong thư Thùy viết có phần trách móc: “Anh Ba khác xưa nhiều lắm, anh chỉ còn biết chiến đấu, biết cây súng mà thôi!”. Trong một lá thư, viết ngày 15 tháng 2 năm 1968, gửi cho bạn là Dương Đức Niệm, Thùy viết về M: “Anh bây giờ sống thật đơn giản, anh không mơ gì hơn là diệt được thật nhiều giặc Mỹ, anh không cần gì cho bản thân, kể cả tình yêu và sự nghiệp".
Đối với Thùy, anh thương với tình thương rất đỗi chân thành, anh tôn trọng và cảm phục trước tình yêu thủy chung của Thùy, nhưng chỉ có thế thôi. Con tim anh không còn những rung cảm sâu xa, những vần thơ thắm đượm tình yêu, những lời ca bay bổng ước mơ nữa rồi”.
Và còn một vấn đề mà Thùy luôn nhắc đến là mối quan hệ họ hàng xa giữa hai gia đình họ Khương, họ Doãn. Mối quan hệ, cách xưng hô được xem như một trở ngại đối với tình yêu của hai người.
Còn anh, anh cũng là con người bằng xương bằng thịt mà lại là người lính, anh có những suy nghĩ riêng. Suy nghĩ của anh chỉ có cha, em út lớn và đồng đội thân thiết của anh là hiểu được phần nào.
Bài thơ của người cha và…
Cha anh rất hiểu điều anh nghĩ và ông đã viết trong bài thơ “Một mối tình”:
Anh trở về trong kia
Em ở lại...
Ta cố quên nhau đi
là hơn...
Không phải anh muốn thế
Những người đi chiến đấu
Không muốn nặng thêm khẩu súng
Một mối tình quá xa
Và nhất là
Nỗi ân hận quá nhiều
Bắt một người yêu
phải đợi...
Vì sao anh lựa chọn sự im lặng?
Trong một lá thư gửi cho em gái, anh viết:
“… Anh đã hành quân qua hàng ngàn thôn xóm cháy rụi, những cánh đồng khô héo vì chất độc… Anh đã từng lặng người trước 70 bà con Hành Đức bị thuốc độc Mỹ làm chết trong hầm, thân thể bầm tím… Anh đã nhìn tận mắt chị phụ nữ Gành Cả bị giặc Pắc Chung Hi hiếp, ruột chị dao găm giặc rọc từ dưới lên trên, cổ chị bị giặc vác cối đá chần lên, lưỡi chị phải thè ra ngoài!
Tayanh đã từng cầm chuỗi cườm của em bé, mảng da đầu dính tóc của người con gái, mảnh xương sọ của bà mẹ - những người trong số 394 người bị giặc Pắc Chung Hi tàn sát trong một giờ vào một sớm mưa lạnh ngày Đông 1966 ở Bình Hòa… Anh đã từng chứng kiến những vụ vây ráp bắt thanh niên ta đi làm bia đỡ đạn cho chúng, chúng đã giành giật trong tay những bà mẹ những người chị, những đứa con thân yêu, những người em hiền hậu… một cách vô cùng man rợ!
“Nhưng đối với đồng bào Quảng Ngãi ta, mỗi tội ác của giặc Mỹ và tay sai gây ra chỉ có tác dụng như đổ thêm dầu vào ngọn lửa căm thù, chỉ có tác dụng làm cho quân và dân Quảng Ngãi ta thêm quyết tâm, thêm sức mạnh chiến đấu vì độc lập tự do, vì hòa bình, hòa hợp dân tộc”.
Tháng 7 năm 1965, trong một bức thư gửi cho đồng chí Thanh Tuyền - Đoàn phó Đoàn Văn công Giải phóng Quảng Ngãi anh viết: “Người lính có cần nghĩ đến số phận và hạnh phúc của mình không?... Cuộc sống dạy cho mỗi người có một suy nghĩ không giống nhau. Mình biết yêu, hiểu nó cả hai mặt lý trí và tình cảm. Mình biết trung thành với nó nhưng mình đặt nó vào chỗ đứng đúng nhất trong cuộc sống của mình. Vì vậy, mà cô gái miền Bắc không hề bị ràng buộc nào về những lời hẹn ước. Mình không nghĩ mình sẽ sống đến ngày được hưởng hạnh phúc. Chỉ có 20 ngày mà đã trải qua 8 trận chiến đấu, có trận nẩy lửa, sắt thép dội lên đầu, mỗi trận đều có người ngã xuống…”.
Khi quyết định trở lại miền Nam , ước mơ lớn nhất của anh là chiến đấu. Anh nguyện hiến dâng cả cuộc đời, tình yêu cao đẹp của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước. Khi nào Nam Bắc sum họp một nhà, anh mới có câu trả lời cho riêng mình.
Anh rất cảm phục trước tình yêu chung thủy của Thùy nhưng trái tim anh đau đớn khi thấy miền Nam đau thương quá, khi quê hương tiếng cười trào ra máu đỏ, khi đồng đội của anh từng ngày, từng giờ đã và đang ngã xuống để giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Anh sao đành lòng nghĩ đến hạnh phúc cho riêng mình. Cuộc ra đi của anh không hẹn ngày gặp lại, rất có thể một ngày nào đó anh cũng ngã xuống như đồng đội của mình. Điều quan trọng hơn anh nghĩ cô bác sĩ như Thùy phải có được một hạnh phúc trọn vẹn.
Lý do để anh im lặng trước một mối tình mãnh liệt, say đắm và đầy lòng tự trọng của cô bác sĩ miền Bắc chính là như vậy.
Sâu thẳm trong suy nghĩ của mình, anh vẫn không thể quên được người con gái đó. Anh đã viết trong cuốn sổ nhỏ của mình “Thùy ơi! sẽ không có người con gái nào giống Thùy đâu, trong cuộc sống và trong trái tim mình”.
Một chiếc bật lửa thu được của lính Mỹ, anh cũng khắc tên hai người. Năm năm xa miền Bắc, xa Thùy, không một trận chiến đấu lớn, nhỏ nào, trước giờ nổ súng anh không nghĩ đến chị. Hôm đánh vào dinh Tỉnh đường ngụy ở Quảng Ngãi, Tết Mậu Thân 1968, khi anh cho nổ quả bộc phá 10 kg để cắt 9 lớp rào gai của địch cũng vậy. Bộc phá nổ tung, cả người anh bị hất tung lên không trung, đầu óc anh bay bổng, quần áo rách bươm, trong cơn mơ màng anh bỗng nghe thấy tiếng hát của Thùy “ Nắng tỏa chiều nay, chiều tỏa nắng đôi bờ anh ơi…”.
Tiếng hát như tiếng sóng vỗ êm đềm bất tận đưa anh về với những kỷ niệm đẹp đẽ thuở nào…
Trong cuốn sổ ghi chép anh đã viết khi biết tin Thuỳ hy sinh: “Em dịu dàng là vậy, chưa biết nói nặng ai câu nào. Em dũng cảm là vậy. Giặc đốt hầm bí mật vẫn bình tĩnh cứu chữa thương binh. Cuỡi hon đa phóng qua trước rào lính địch để cấp cứu ca thương binh nặng. B-52 trên đầu. Quân đánh bộ bên cạnh vẫn bình tĩnh băng bó thương binh, dìu đi khỏi vòng vây.
Bà con thương yêu đùm bọc em. Các mẹ gọi em là Con gái. Các em gọi em là Chị. Cánh lính trẻ gọi em là Sao Vệ nữ. Các nhà thơ gọi em là người của làng thơ họ. Các nhà văn cãi lại bảo em là người của họ gửi nhờ Sê Khốp dạy nuôi. Vậy mà em ngã xuống. Và em cũng không nhận ra anh!…
Em chết đi biến thành ngọn gió lượn trên đầu anh. Trên đời anh. Thành tiếng gọi…trước anh để đi tới… Anh đã nghĩ, đó là tình yêu của người lính!
Nguồn: vtc.vn (20/12/07)