Chuyện xây dựng kinh thành Thăng Long xưa
Lịch sử xây dựng thành Thăng Long:
Nói về lịch sử xây dựng thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay), các nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học ở nước ta cho rằng, trước hết phải nói về nguyên tắc chung của việc xây dựng các thành trì Việt Nam , thành trì ở nơi kinh đô cũng như tại các tỉnh, thị xã, thị trấn. Ở kinh đô lại phải tôn trọng nguyên tắc về phong thuỷ sao cho thật kỹ lưỡng. Địa điểm được lựa chọn để đặt thủ đô của cả nước, phải đáp ứng với các yêu cầu về chính trị và quân sự.
Vì yêu cầu chính trị, nên nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Ở thế kỷ thứ 10, Đại Việt đang lớn mạnh trên đà thống nhất các địa phương, thành Thăng Long là địa điểm trung tâm của đất nước, uy quyền triều đình vươn tới được khắp nơi. Đó cũng là chỗ kinh tế phồn thịnh, chỗ giao lưu của các con đường giao thông đường thuỷ cũng như đường bộ toả ra tứ phía. Đây còn là vùng đất “thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Một yếu tố không kém tầm quan trọng đối với hai yếu tố chính trị và kinh tế, đó là yêu cầu về phong thuỷ, một yếu tố gắn liền với đời sống con người Việt Nam , nó bắt nguồn từ một nền văn hoá xa xưa. Nghệ thuật quân sự thời phong kiến không thể thiếu kiến thức phong thuỷ và thiên văn (ta đã có sách “Binh gia yếu lược”, “Vạn kiếp bí truyền”….). Trong các công trình xây dựng kiến thiết, quan trọng nhất như: đắp thành trì, dựng cung điện, làm đền đài, đình chùa, miếu mạo, hoặc nhỏ hơn như làm nhà ở, để mồ mả, người ta không bao giờ bỏ quan phép phong thuỷ. Theo phép phong thuỷ thì dù là thành trì, cung điện, đền đài, nhà cửa, mồ mả, bất luận là gì, đằng trước phải có tiền án, to thì là quả núi, ngọn đồi, nhỏ thì là một mô đất, dẻo cao, nó trấn giữ không cho là thần hung khí xâm phạm vào chính đường, hai bên phải có cái gì được mệnh danh là Bạch Hổ ở bên trái và Thanh Long ở bên phải, để hỗ trợ bên cạnh; sau lưng là Hậu Chẩm cũng không phải là không quan trọng vì nó là chỗ dựa vững chắc; lại có long mạch, thường là con sông, hồ ao, nước dài, long mạch luôn luôn phải được khai thông để giữ lấy vượng khí…
Chuyện Phong thuỷ về xây dựng thành Thăng Long gắn liền với những truyền thuyết thần Bạch Mã và Cao Biền với thành Đại La, và truyền thuyết Lý Thái Tổ được thần Ngựa Trắng vạch cho những hướng đắp tường thành Thăng Long. Khu vực thành trì có từ đời Đường (thế kỷ 8 - thứ 9), thành Thăng Long đời Lý đắp trên vị trí thành Đại La của Cao Biền. Nhà hậu Lê đắp lại cũng trên vị trí cũ có sửa đổi chút ít: Hoàng thành chia làm hai khu vực Đông Tràng An và Tây Tràng An. Qua những năm chiến tranh Trịnh – Tây Sơn, quân Thanh xâm lược, thành nhà Lê bị bỏ hoang phế đổ nát. Năm 1802, Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, định đô ở Huế thì Hà Nội là thành trì của Tổng Trấn Bắc Thành. Thành cũ nhà Lê bị phá huỷ để xây một thành mới ở vị trí của thành cũ nhưng quy mô nhỏ hơn.
Sử nhà Nguyễn “Đại Nam Thực lục” (đệ nhất kỷ) có chép rằng: Năm Gia Long thứ 4 (1805) cho xây dựng lại thành Thăng Long ở ngay vị trí cũ, kích thước có thu hẹp lại hơn trước. Thành hình vuông vắn. Chuvi đo được 1285 trượng, 6 thước 5 tấc (tấc 1958 tầm, tương đương bằng 5476 mét), nghĩa là mỗi bề mặt thành dài hơn 1 cây số. Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành có hai lớp, trên là đá ong, dưới là đá tảng xanh. Tường cao 1 trượng 1 thước (bằng gần 4,7 mét), dày 4 trượng (bằng gần 17 mét). Thành có 5 cổng: 3 cạnh Đông, Tây và Bắc mỗi cạnh có 1 cổng. Cạnh phía Namcó 2 cổng Đông Namvà Tây Nam . Đường vào cổng xuyên qua tường thành, trên xây vòm, trên nóc cổng thành có lầu xanh, gọi là thú lâu, xung quanh tường thành ở phía ngoài là một dải đất rộng chừng 6 – 7 mét rồi mới đến một con hào rộng trên dưới 20 mét, tuỳ chỗ và sâu chừng 5 mét, xong mực nước ở dưới hào chỉ có độ 1 mét. Hào cạnh phía Bắc là một đoạn sông Tô Lịch, chảy từ phường Hà Khẩu vào góc Đông Bắc và ra ở góc Tây Bắc. Phía ngoài thành, mỗi cổng thành có hai đoạn luỹ bắt góc đắp liền trên bờ hào, gọi là Dương Mã Thành, dài 2 trượng 9 thước (khoảng 12 mét), cao 7 thước 5 tấc (3,18 mét). Cửa vào Dương Mã Thành ở đoạn bên phải, rộng khoảng 4,24 mét, gọi là Nhân Môn. Đi từ ngoài vào thành phải qua hai lần cầu xây bằng gạch. Cổng Nhân Môn và cổng chính của thành đều làm bằng những tấm gỗ lim dày, chắc chắn cũng như tường thành, 4 góc xây 4 múi khế rất đẹp. Tại mỗi thú lâu có 1 cơ binh thay phiên nhau canh gác ngày đêm….
Bên trong thành được chia làm nhiều khu, trong đó ở khu trung tâm: chính giữa là điện Kính Thiên được xây dựng hơi lệch về hướng Tây để lấy hướng Phong Thuỷ. Bên ngoài là tường cao vòng quanh hình chữ nhật, dài 350 mét, rộng 120 mét. Bên trong chia làm 2 phần: điện Kính Thiên xây trên núi Nùng, thềm điện cao 3 tấc, 2 bên có rồng đá lượn và phía sau là Hành Cung, chỗ vua ngự mỗi khi ra Bắc. Điện Kinh Thiên có tường cao xây ngăn và có 2 cổng nhỏ thông đối nhau. Từ Điện Kính Thiên trước mặt đi thẳng ra Đoan Môn, 2 bên đường đi là tường cao. Đoan Môn có 3 cửa, cửa chính ở giữa dành cho Vua và 2 cửa phụ dành cho các quan. Sau Hành Cung là lầu Tĩnh Bắc, còn gọi là Hậu Lâu (theo Đại Nam Thực lục chính biên, đệ nhất kỷ).
Thành Thăng Long của đời Nguyễn đến triều Minh Mạng thì đổi làm thành của tỉnh Hà Nội và bị hạ thấp tường thành xuống 1 thước 8 tấc ta (0,67 mét), chiều cao chỉ còn khoảng 3,90 mét, hai cửa Tây và Tây Nam đều bị xây bịt kín. Gần Cột Cờ cạnh một gốc đa lớn có đền thờ Liễu Hạnh. Đến năm Tự Đức 1 (1848), Vua Nguyễn hạ lệnh phá vỡ những vật liệu thuộc cung điện cũ của nhà Hậu Lê ở trong thành, như các đồ chạm trổ bằng gỗ quý và bằng đá, đưa về Huế để trang trí cho cung điện trong đó, nên những di tích xây dựng của các triều trước bị mất hết, chỉ còn sót ại đôi Rồng đá ở trước thềm điện Kính Thiên…
Thực dân Pháp đóng ở Thành Hà Nội kể từ năm 1882 cho mãi đến năm 1954 (tức 72 năm), trừ một thời gian ngắn khoảng một năm sau khi Nhật đảo chính Pháp (tháng 3 – 1945) đến khi quân Pháp trở lại (4 - 1946). Trong thời gian Việt Nam bị mất nước, Thành Hà Nội bị chúng phá phách, gần như mất cả, di tích chỉ còn lại là cửa bắc, Cột Cờ và chút ít tường, cổng, bậc đá của điện Kính Thiên. Nhưng vị trí của Thành còn rõ nét của các đường phố vạch theo những lối đi cũ ở trong thành, đường lối vuông vắn như trên mặt bàn cờ.