Chữa nhức đầu bằng “mạn kinh tử”
Mạn kinh tử mang tính hơi Hàn
Có vị cay đắng dễ dàng tán phong
Vào ba kinh: Can, Phế, Bàng quang
Nhức đầu hoa mắt sẵn sàng dùng ngay
Chữa cảm mạo, sốt cũng hay
12 gam sắc uống mỗi ngày vài phiên
Nếu mà tán bột, hoàn viên
Liều dùng như thế còn phiền chi ai?
Mười hai gam bột viên sài
Chia ba lần uống chẳng sai chút nào.
Mạn kinh tử còn gọi là Kim tử, Quan âm, đem ba lá với tên khoa học: Vitex teitolial, thuộc họ Cỏ roi ngựa. Quả chín được thu hái đem về phơi hay sấy khô. Mạn là mọc lan ra mặt đất còn Kinh là gai do đó có tên “Mạn kinh tử”.
I. Mô tả
Mạn kinh tử là một cây nhỏ hay nhỡ, có mùi thơm, cây có thể cao tới 3m, cành non có 4 cạnh, có lông mềm bao phủ, lá chét và kép, cùng một cành nhiều khi cả phía trên day dưới có lá đơn và chỉ gồm một lá chét. Cuống gầy hơi tròn cũng có lông: dài 1-3cm, lá chét không cuống, phiến lá chét hình trứng hoặc hình mác dài 2,5-9cm, rộng 1-3cm, phía dưới hẹp lại. Mặt dưới nhiều lông trắng còn mặt trên nhẵn, nhưng lá chét 2 bên thì nhỏ hơn, gân không nổi rõ, hoa màu lơ nhạt, dài 13-14mm, mọc thành chùm xim ở đầu cành, phía dưới thường có lá. Quả hình bầu dục có rãnh, đầu hơi dẹp rộng chừng 6mm.
II. Thu hái và chế biến
Mạn kinh tử mọc hoang ở rất nhiều nơi trong khắp nước ta. Loại I lá chét rất phổ biến có ở dọc bờ biển các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, còn mọc ở các tỉnh ven biển Trung Quốc và Malaixia.
Từ tháng 9-11 hàng năm khi quả chín hái về phơi khô, bỏ cuống và tạp chất là được.
Mạn kinh tử có hình dạng rất đặc biệt. Hình cầu đường kính từ 5-6mm, mặt ngoài mầu nâu đỏ đen hơi phủ lớp phấn mầu trắng tro (soi kính thấy có lông), ở trên đỉnh có lỗ, hơi lõm xuống, phía cuống dài tồn tại 1/2-2/3 quả, phía trên đài chia từ 2-5 thuỳ, vỏ ngoài mỏng, vỏ giữa xốp, vỏ trong màu xám vàng, chất nhẹ nhưng chắc, cắt ngang trông như có dầu, mầu trắng có 4 ngăn, mỗi ngăn có 1 hạt, vị đắng có mùi thơm đặc biệt.
III. Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ Mạn kinh có vị cay, đắng tính hơi hàn vào 3 kinh: Can, Phế và Bàng quang. Tác dụng: Tán phong nhiệt, dùng chữa nhức đầu, mắt đau và hoa mắt. Ngoài ra còn chữa cảm mạo, sốt, nhức một bên mắt, mắt mũi tối tăm, còn có tác dụng giảm đau.
Liều dùng: Ngày dùng từ 6-12g dưới dạng sắc hoặc có thể phối hợp một số vị khác với liều 2-3g 1 lần uống bằng thuốc viên hay bột để chữa thiên đầu thống: Mạn kinh tử 10g, Cúc hoa 8g, Xuyên khung 4g, Tế tân 2g, Cam thảo 4g, Bạch chỉ 3g, nước 600ml, sắc còn 200ml (chia 3 lần uống lúc nóng trong ngày hoặc dùng đơn thuốc chỉ có riêng 1 vị Mạn kinh tử 80g, rượu uống (30°-40°) 1 lít ngâm 10 ngày trở lên, ngày uống 2 lần mỗi lần 10-15ml.
- Bài thuốc làm cho tóc đen và dài: Mạn kinh tử và Hùng chi (mỡ gấu) 2 vị bằng nhau trộn với dấm thanh để bôi vào tóc (theo sách Thánh Huệ phương có ghi lại trong Bản thảo Cương mục).
- Chữa phụ nữ mới bị sưng vú: Dùng Mạn kinh tử sao dòn, mỗi lần uống 4g hoà với rượu (chắt bã đắp lên vú).
Cước chú: - Những người Vị hư không nên dùng Mạn kinh tử và những người đau mắt đỏ huyết hư có hoả không phải phong tà cũng chớ dùng.
Nguồn: Tạp chí Đông y, số 372, 2005, tr 31