Chữ Thái có phải là “lai tay”?
Trong ngôn ngữ hàng ngày của người dân Thái, xác định cho đầy đủ các nghĩa liên quan của từ “lai” không phải là việc dễ dàng. Theo cách hiểu chung nhất, “lai” có nghĩa là một mảng tập hợp các đường nét hoặc hoa văn hàm chứa được một giá trị nhất định (về thông tin, về kết cấu, về màu sắc…). Cách hiểu này thiên về các yếu tố tích cực. Theo đó, các đường vân tay, chỉ tay trên lòng bàn tay được gọi là “lai mư”; các mảng màu và đường nét hoa văn trên các tấm vải dệt hoặc thổ cẩm được gọi là tương ứng là “lai pha”, “lai màn”; hoa văn trong lòng rổ, rá, thúng… được tạo nên bởi cách đan cài các thanh nan ngang dọc được gọi là “lai đông”… Và một bản sách có ghi các chữ Thái cổ trong đó thì được gọi là “phờ lai” hoặc “pựn lai” - có nghĩa là một thực thể bền vững có chứa đựng “lai” ở bên trong. Như vậy, rõ ràng là ngoài hình ảnh đơn thuần được tạo bởi các mảng đường nét hữu hình, “lai” còn tiềm ẩn cả sức mạnh trí tuệ và khả năng sáng tạo là những thứ không dễ gì nhìn thấy và nắm bắt được. Từ đây ta thấy, việc hiểu “lai tay” là “chữ Thái” chỉ là một sự lựa chọn cần thiết để phục vụ cho thuật ngữ. Thật ra, trong tiếng Thái là một sự lựa chọn cần thiết để phục vụ cho thuật ngữ. Thật ra, trong tiếng Thái có từ “xư” (hoặc có nơi đọc là “chư” tuỳ theo từng địa phương) được mang nghĩa: 1: Chữ viết; 2: Tên gọi (danh tính); 3: (…). Các cụ già người Thái ở vùng Tây Bắc của tỉnh Nghệ An có sử dụng từ “lai tay” nhưng với “lai xứ” thì lại gọi là “xứ tay đăm” (chữ của người Thái đen) và dùng “xứ pao” để chỉ hệ chữ “lai pao”. Cũng theo lời các cụ kể lại, thời xưa người con trai của các gia đình thuộc hàng vai vế trong xã hội Thái, khi trưởng thành đều được đặt thêm một tên khác dùng từ “xự” hoặc “quảng” đứng đầu (tương tự “first name”?). Người thanh niên khi được đặt cho các tên này được dân bản coi là người tuấn tú, có học thức, có triển vọng…, dân bản gọi họ là những người “cốn đỉ mí chừ” hoặc “na đỉ mí chừ” (thành ngữ, nghĩa là “tuấn tú thông minh”).
Quay lại với từ “lai”, ngoài cách hiểu đã nêu, “lai” còn được dùng khi nói đến việc thể hiện khả năg trí tuệ hoặc cách thức giải quyết công việc của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Điều này được thể hiện rõ qua thành ngữ “pớ mí lái mắn” (“mỗi người có một tài riêng”).
Với các hiểu thiên về tiêu cực, từ “lai” mang các nghĩa là: vằn vện, loang lổ. Để tả về bộ mặt cũng như bộ da vằn vện của loài hổ hoặc của mèo, người ta dùng từ “lái xửa”. “lái méo”. Con báo gốm cũng được gọi là “xửa lái tiến” (“lái tiến” - tấm da báo lốm đốm như có in hình của các đồng xu). Vậy nên, với thành ngữ “na dỉ mí chừ”. (Khuôn mặt tuấn tú thông minh) mà chuyển sang dùng “lai” thay cho “chừ” để nói: “na dỉ mí lái” thì khi nghe được, người Thái sẽ phì cười… Kể ra, từ “lai” và từ “xứ” có sự gần gũi đặc biệt về ngữ nghĩa, do từ “lai” mang đặc tính tổng quát nên cách gọi “lai xứ” vẫn được tồn tại trong phạm vi quy ước.
Những điều đã nêu trên cho phép nhận định rằng, cách nói cũng như cách hiểu cho rằng “lai tay” là “chữ Thái” hoặc “chữ Thái” là “lai tay” không phải là hoàn toàn đúng đắn nhưng sự lựa chọn này có những điểm hợp lý nên đã được chấp nhận trong thực tế. Và bởi ở Việt Nam có nhiều hệ chữ Thái khác nhau, nên cũng phải nhìn nhận những điểm hợp lý trong cách gọi “chữ Thái (hệ) lai tay”, “Chữ Thái (hệ) lai xứ”… cũng như cách nói “người Thái (nhóm) Tày Mường”, “người Thái (nhóm) Tày Thanh”…
Với giả định rằng, khi ở Việt Nam chỉ có một hệ chữ Thái duy nhất thì đến một lúc nào đó, khi có sự nghiên cứu trên bình diện khu vực hoặc quốc tế, người ta sẽ lại đưa ra cách gọi để phân biệt “chữ Thái (ở) Việt Nam”, “chữ Thái (ở) Thái Lan”, “chữ Thái (ở) Lào”… chẳng hạn. Bởi vì các nước Lào, Thái Lan cũng đang sử dụng hệ chữ quốc gia vốn nằm trong tổng thể chung của các hệ chữ Thái. Lúc đó người Thái ở Việt Nam chắc chắn là tự hào với thuật ngữ “chữ Thái Việt Nam”, bởi ngoài việc gắn bó với lịch sử đấu tranh lâu dài của dân tộc, người Thái cũng tạo ra được sắc diện riêng biệt mang tính đặc thù làm phong phú thêm cho các giá trị văn hoá chung của quốc gia Việt Nam.
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 5 (127), 2006, tr 40 - 41








