Chết đuối
Nguyên nhân gây chết đuối
Theo các chuyên gia, có 3 nhóm nguyên nhân chính gây ra chết đuối, liên quan đến; con người (bệnh lý, tâm lý và kỹ thuật), môi trường nước có nhiều yếu tố nguy hiểm, trang bị (hỏng thiết bị cung cấp khí).
Liên quan đến con người có thể do công tác huấn luyện không đầy đủ, kinh nghiệm của thợ lặn và hành vi của nạn nhân. Những nghiên cứu trên động vật cho thấy: trước khi dẫn đến chết đuối động vật hoảng hốt, mất phối hợp động tác, hô hấp nhanh nông, hít phải nước, co giật, co thắt cơ khi hít vào. Thường bất tỉnh sau 3 phút. Quan sát trên người thường thấy tình trạng hoảng hốt, giãy dụa, không kiểm soát được động tác bơi lội, hít và uống nhiều nước, có thể xuất hiện nôn, ngạt thở dưới nước, xuất tiết, xuất huyết đường hô hấp và co giật dẫn đến tử vong. Ở trẻ em thường không có vật lộn, có động tác nhịn thở vô thức. Một số người biết bơi nhưng do tình trạng sức khỏe, hay gặp là hen, các bệnh lý tim mạch, thể lực yếu.. mà không phát hiện ra trước đó qua khám bệnh định kỳ. Ngoài ra, nghiên cứu của các nước còn thấy khoảng một nửa trường hợp chết đuối nam giới trưởng thành do: hành động thiếu suy nghĩ, giảm khả năng phản ứng với các hoàn cảnh đe dọa đến tính mạng, mất thân nhiệt do giãn mạch ngoại vi, tăng cường phản xạ ở đường hầu họng, tăng phản xạ nôn…
Các biến đổi cơ thể khi bị chết đuối
Thực nghiệm trên động vật cho thấy sự rối loạn về sinh hóa máu khi chết đuối. Chết đuối do nước ngọt thì có tình trạng pha loãng máu. Do áp suất thẩm thấu của nước ngọt thấp hơn máu nên nước qua màng phế nang mao quản khuếch tán vào máu (làm tăng thể tích tuần hoàn). Đối với nước mặn thì áp suất thẩm thấu lớn hơn máu 3,5 – 4 lần nên dịch từ máu khuếch tán vào phế nang làm phù phổi và giảm thể tích máu lưu thông. Có tình trạng tăng nhịp tim, tăng huyết áp, sau đó huyết áp giảm, rối loạn nhịp tim (nhanh thất, trên thất, rung thất…) tử vong xảy ra là do rung thất từ hậu quả rối loạn điện giải hoặc thiếu oxy. Khi nước tràn vào trong phổi sẽ gây giảm độ đàn hồi của phổi, nước mặn thì làm hòa loãng chất surfactan đưa đến xẹp phế nang và phù phổi, nước ngọt thì phá hủy chất surfactan, ngoài ra còn gặp tình trạng co thắt đường hô hấp do kích thích thần kinh phó giao cảm khi hít phải nước.
Tuy nhiên, nghiên cứu trên người chết đuối và người gần chết đuối cho thấy có một số điểm không giống với thực nghiệm trên động vật. Ở người không có hiện tượng loãng máu dù nước ngọt hay mặn, rung thất ít gặp và thường là khi hít phải nước ngọt, phù phổi thường gặp nhưng ít liên quan loại dịch hít phải, những nạn nhân đến bệnh viện còn ý thức và chụp X quang phổi bình thường thì đa số sống sót. Sở dĩ những biến đổi sinh hóa trên người không giống động vật là do thực nghiệm trên động vật gây mê với số lượng nước bơm vào phổi lớn (11 – 20 ml/kg cân nặng), còn thực tế ở người lượng nước hít vào có lẽ phù hợp với phản ứng ở động vật khi hít phải 2,2 ml/kg cân nặng.
Người ta còn gặp hiện tượng “chết đuối khô” hay “chết đuối trên cạn”. Đó là trường hợp nạn nhân chết đuối nhưng không hít phải nước do hậu quả của phản xạ co thắt thanh quản gây ngạt. Sau khi hít nước, ở giai đoạn đầu nước hấp thu nhanh nên giải phẫu tử thi sẽ không thấy nước, co thắt thanh quản do phản xạ có thể đến tử vong.
Các giai đoạn của chết đuối nước
Chết đuối nước xảy ra theo 3 giai đoạn: bắt đầu chìm (thời gian tùy thuộc thể lực, mức độ luyện tập, yếu tố tâm lý…); hít phải nước (thanh quản có phản xạ co thắt, lúc này phổi vẫn khô, thường nuốt từng ngụm nước, có thể kèm theo nôn, gây ngạt; thiếu oxy (do tăng tiêu thụ oxy, đường thở bị tràn dịch, mô phổi bị tổn thương, giảm diện tích khuếch tán… dẫn đến thiếu oxy máu, gây mất ý thức, rối loạn nhịp tim và ngừng tuần hoàn…).
Triệu chứng lâm sàng của đuối nước rất đa dạng, nguyên nhân là do thiếu oxy. Gồm khó thở, đau sau xương ức, tăng tiết đờm lẫn máu, thở nhanh, nông, tím tái… suy hô hấp sau vài giờ. Biểu hiện thần kinh là mất ý thức, co giật, phù não do thiếu oxy não. Trên hệ tim mạch: nhịp nhanh, giảm huyết áp, xuất hiện rối loạn nhịp tim… Trường hợp sống sót thì cũng có thể để lại di chứng ở hệ thần kinh trung ương như giảm trí nhớ và rối loạn chức năng ngoại tháp (chiếm 10%).
Xử lý cấp cứu người chết đuối
Nhanh chóng kéo nạn nhân ra khỏi nước (đối với thợ lặn thì nhanh chóng bỏ máy lặn) và nhanh chóng tìm cách cho nước thoát ra khỏi phổi, dạ dày. Bế xốc nạn nhân lên, đầu phía dưới, hai chân quàng lên vai người cứu, người cứu vừa chạy vừa nhảy. Hoặc để nạn nhân nằm sấp, đầu thấp móc đờm dãi trong hầu miệng nạn nhân (ra được càng tốt).
Nếu ngừng tim, ngừng thở: phải nhanh chóng hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực cho đến khi thở lại và có mạch. Phải kiên trì cấp cứu cho đến khi nạn nhân tự thở được, có mạch, đồng tử bớt giãn, da niêm hồng trở lại hoặc nạn nhân có dấu hiệu chết thật sự mới thôi (thân cứng, lạnh, giãn rộng đồng tử…). Nếu nhạn nhân còn thở, tim còn đập: lau khô, ủ ấm, uống nước trà đường, trợ tim, trợ hô hấp.
Nếu tai nạn gần cơ sở y tế phải vừa tích cực cấp cứu vừa tìm cách chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế.