Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 31/07/2006 14:08 (GMT+7)

Câu chuyện về Oxy

Oxy đã xuất hiện từ khi nào trong bầu khí quyển Trái đất? Cái gì đã sinh ra nó? Cái gì đã giữ nó lại lâu đến vậy? Và nguyên nhân gì đã khiến nó tràn ngập bầu khí quyển để tạo điều kiện cho những sinh vật tiến hóa cao ra đời?

Một sự khởi đầu 
Các nhà lịch sử về oxy luôn luôn đồng ý với nhau một điều: Trái đất đã ra đời mà không hề có oxy tự do - tức là oxy ở dạng phân tử O 2. Nguyên tố oxy đã chỉ tồn tại ở dạng hợp chất trong đất đá và nước. Trong một nửa thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã rất phân vân, không biết chắc chắn những khí nào đã tham gia vào sự tạo thành các vật chất khởi nguyên của sự sống. Cách đây có lẽ khoảng 3,5 tỷ năm, sự sống đầu tiên đã xuất hiện mà không cần đến oxy, nó đã tồn tại được nhờ vào quá trình xử lý hóa học những nguyên tố (như sắt chẳng hạn) để thu được chút năng lượng ít ỏi. 

Các nhà khoa học cũng đã tranh cãi nhau mất hàng thập kỷ về chuyện Trái đất đã ở trong tình trạng thiếu oxy trong bao lâu, và trong bao lâu Trái đất đã chỉ toàn là những thực thể sống nhỏ bé, đơn giản và chậm chạp. Cho đến gần đây, ý tưởng có vẻ thắng thế là ý tưởng của nhà hóa học địa cầu Heinrich Holland (Đại học Havard), rằng Trái đất đã thiếu oxy cho đến thời điểm cách đây hơn 2 tỷ năm. Những bằng chứng đã được đưa ra, chẳng hạn như các khoáng vật già hơn khoảng 2,2 đến 2,4 tỷ năm tìm thấy trong đất đá cổ đều không có dấu hiệu là đã từng ở trong môi trường có oxy. Tuy nhiên, một học trò cũ của Hollandlà Hiroshi Ohmoto (Đại học bang Pennsylvania ) lại có quan điểm khác. Ohmoto tin rằng khí quyển Trái đất đã có oxy từ lâu hơn nhiều. Ông và những người khác đã chỉ ra những khoáng vật mà họ tin rằng chúng đã từng bị oxy hóa từ ít nhất là 3 tỷ năm trước.

Và một bước tiến


Cuộc tranh luận giữa thầy và trò đó bây giờ dường như được giải đáp nghiêng về ý tưởng của thầy. Các nhà nghiên cứu đã có trong tay một phương pháp rõ ràng để xác định sự tồn tại hoặc thiếu vắng của oxy trong giai đoạn sơ khai của Trái đất. Từ năm 2000, nhà hóa học địa cầu James Farquhar và các cộng sự ở Đại học Maryland đã phát triển một phương pháp nghiên cứu các đồng vị lưu huỳnh trong quá trình tác động của ánh sáng mặt trời làm phân tách lưu huỳnh dioxide của bầu khí quyển. Những phản ứng quang hóa như vậy có thể sắp xếp lại các đồng vị lưu huỳnh theo những cách đặc biệt mà không liên quan gì đến khối lượng của chúng. Tuy nhiên, chính oxy tự do của bầu khí quyển đã xóa sạch sự phân đoạn độc lập khối lượng đó (MIF - Mass-Independent Fractionation) trước khi lưu huỳnh rơi xuống bề mặt Trái đất. Tại đó, hỗn hợp các đồng vị có thể được lưu giữ trong những lớp trầm tích.

"Lượng oxy tăng lên đã làm thay đổi tiến trình của sự sống, chính bầu khí quyển tràn ngập oxy là điềm báo trước cho  một sự sống tiến hóa cao trên Trái đất, và tôi cũng dám chắc rằng điều này cũng sẽ đúng ở bất cứ nơi nào khác", nhà thiên văn sinh học David Catling ở Đại học Bristol (Anh) nói








Những bằng chứng tốt hơn về lịch sử của oxy không phải lúc nào cũng giúp cho công việc của các nhà sử học trở nên dễ dàng hơn. Chính chúng cũng có thể tạo ra nhữnglỗ hổng rất khó giải thích. Chẳng hạn, bằng chứng về các dấu tích sinh học chỉ ra rằng các vi khuẩn cyanide tạo ra oxy đã tồn tại từ 2,7 tỷ năm trước hoặc sớm hơn. Nhưng phải 300 triệu năm sau đó,Biến cố Oxy hóa Lớn mới xảy ra. Tại sao lại có sự chậm trễ như vậy?

Các nhà nghiên cứu đã đề xuất một vài lý do khả dĩ. Nhà sinh học địa cầu Joseph Kirschvink ở Viện Công nghệ California và học trò Robert Kopp của ông cho rằng, các vi khuẩn cyanide đầu tiên đã khôngtạo ra oxy. Họ lập luận rằng, dạng quang hợp mà giải phóng chất khí chỉ mới xuất hiện từ 2,4 tỷ năm về trước. Sự giải thích này đã không đếm xỉa đến một số các bằng chứng địa hóa học, chẳng hạn nhưcác sterane, những chất thường được coi là phải cần có oxy để tổng hợp nên chúng.

Các nhà khoa học khác lại ngờ rằng, các khí núi lửa, chẳng hạn như hydro đã ngốn hết tất cả oxy trên Trái đất, và phải đến 2,4 tỷ năm về trước các khí núi lửa mới hết đi và oxy khi đó mới có thể tồntại tự do. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây về dấu tích kim loại trong đá cổ được lấy từ các lớp sâu của Trái đất dường như đã chỉ ra rằng nguồn cung cấp khí núi lửa thậm chí vẫn ổn định trongsuốt giai đoạn biến cố oxy hóa.

Catling và các cộng sự đã giả thiết rằng nồng độ cao của khí methane (CH 4) trong bầu khí quyển hồi ấy đã làm tăng nhanh tốc độ "rò rỉ" khí hydro ra ngoài không gian, điều này khiến chokhí oxy được sinh ra từ các quá trình quang hợp trở nên tràn ngập Trái đất. Từ năm 2001, họ đã chỉ ra rằng từ 3 tỷ năm trước, các vi khuẩn sống trong điều kiện không có oxy đã tạo ra lượng khímethane nhiều hơn ngày nay từ 100 đến 1500 lần. Và khí methane mang theo hydro có thể khuếch tán tự do ra lớp vỏ ngoài khí quyển, tại đó hydro có thể trốn thoát ra ngoài không gian.

Để kiểm tra ý tưởng này, Catling cùng với nhà thiên văn sinh học Mark Claire ở Đại học Washington và nhà vật lý học hành tinh Kevin Zahnle của NASA đã xây dựng một mô hình máy tính mô phỏng các diễnbiến của methane và oxy trên Trái đất cổ xưa. Trong mô hình này, các khí núi lửa và các phản ứng của khoáng vật ở vỏ Trái đất đã tiêu thụ hết tất cả oxy mà các vi khuẩn cyanide đã tạo ra. Khi khôngcó nhiều methane để mang hydro ra ngoài không gian, Trái đất vẫn thiếu oxy một cách vô định. Nhưng với sự tăng lên của methane trong khí quyển, những kẻ thù của oxy bị loại bỏ và nồng độ của nó bắtđầu tăng. Khi đó, các vi khuẩn chậm chạp tạo ra methane có lẽ đã không đề phòng được sự tăng lên của oxy - một loại khí tử thần đối với chúng, và thời đại của oxy đã được mở ra.

Cả một tỷ năm nhàm chán


Những gì đã đến sau Biến cố Oxy hóa Lớn thậm chí còn khó hiểu hơn cả 300 triệu năm bí ẩn kia. Sự xuất hiện của oxy đã tạo ra những lớp địa tầng màu đỏ dưới đáy biển với các eukaryote của sự sống. Sauđó, trong cả một tỷ năm, những tảo eukaryote mới xuất hiện này đã chẳng tiến hóa được gì hết. Chúng nằm im lặng trong các lớp váng màu lục của đại dương, mất cả một quãng thời gian dài của lịch sử.Và có bằng chứng địa hóa học đã chỉ ra rằng, Biến cố Oxy hóa Lớn thực ra cũng chẳng có gì là lớn lắm. Để hiểu được tại sao lại như vậy, các nhà khoa học đã hướng về đại dương và đi tìm câu trảlời.

Những nghi ngờ xung quanh quy mô của biến cố oxy hóa bắt đầu nảy sinh từ năm 1998 khi nhà hóa học địa cầu Canfield, trên cơ sở các đồng vị lưu huỳnh đã lần đầu tiên đề xuất rằng tất cả nước của đạidương, trừ lớp nước trên cùng, vẫn không hề có oxy trong hơn 1 tỷ năm sau khi chất khí này lần đầu tiên xuất hiện trong bầu khí quyển. Năm 2002, nhà hóa học địa cầu Ariel Anbar ở Đại học bang Arizonavà nhà cổ sinh học Andrew Knoll ở Đại học Havard đã liên kết ý tưởng của Canfield với lịch sử sự sống. Họ đã đề xuất rằng, trong giai đoạn "Đại dương Canfield", oxy có lẽ chỉ tồn tại trong khí quyểnở mức 1% đến 10%, điều này đã thực sự làm các tảo eukaryote bị đói và ngăn cản sự tiến hóa của chúng. Họ chú ý rằng, chính oxy khí quyển đã tham gia vào quá trình tạo ra các hợp chất sulfide chếtchóc trong đại dương, những hợp chất này đã loại bỏ các sắt và molybden trong nước biển. Loài tảo thì lại rất cần những nguyên tố này để tổng hợp nên các enzyme cần thiết cho quá trình sinhdưỡng.

Một vài nhóm nghiên cứu đã mở rộng các phân tích đồng vị lưu huỳnh của Canfield để nghiên cứu giai đoạn giữa của Đại Nguyên Sinh (2,5 tỷ đến 0,54 tỷ năm về trước),họ cũng đã xác nhận các dấu hiệu về sự thiếu vắng oxy. Nhưng các nghiên cứu này dựa trên mẫu đá dưới biển, hình thành từ sự lắng đọng nước biển và ít nhất thì cũng phần nào bị cô lập với đại dương,giống như ở Biển Đỏ ngày nay. Do đó, có lẽ sự thiếu oxy của chúng không phải là điển hình cho cả một hệ thống đại dương rộng lớn.
Năm 2004, nhà hóa học địa cầu Gail Arnold ở Đại học Rochester cùng các cộng sự đã làm dịu đi rất nhiều những nghi ngờ này. Trên tạp chí Science(ngày 2 tháng 4 năm 2004, trang 87), họ đãtrình bày những phân tích của họ về đồng vị molybden được chứa trong các mẫu đá từ giữa Đại Trung Sinh. Tỷ lệ của hai đồng vị molybden phụ thuộc vào lượng oxy trong đại dương. Và không giống nhiềunguyên tố hòa tan khác, trước khi bị giam giữ trong trầm tích, molybden có thể tồn tại trong nước biển đủ lâu để chu du khắp đại dương. Như vậy, các mẫu thuộc Đại Trung Sinh được lấy từ một địa điểmcó thể phản ánh được lượng oxy của toàn bộ đại dương. Arnold và các cộng sự đã tìm ra các dấu hiệu cho thấy sự thiếu oxy trong thềm đại dương từ 1,4 đến 1,7 tỷ năm về trước.

Bất ngờ ở cuối Đại Trung Sinh     


Điều gì đã khóa lại cả một tỷ năm tiến hóa của Đại Trung Sinh cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Nhưng vẫn còn một bí ẩn lớn hơn và cám dỗ hơn, đó là làm thế nào mà vào cuối Đại Trung Sinh (khoảng 0,6hoặc 0,7 tỷ năm về trước) lượng oxy lại đột ngột tăng đến mức gần giống như hiện nay? Trong thời kỳ đó, những sinh vật đa bào và sau đó là những sinh vật lớn như con Ediacara đầy bí ẩn lần đầu tiênxuất hiện - những sinh vật này đã có nhu cầu về oxy lớn hơn rất nhiều.

Biến cố oxy hóa thứ hai này cho thấy những vấn đề còn khó hiểu hơn cả biến cố thứ nhất. Hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng, nó chính là dấu mốc cho một sự thay đổi lớn mà kể từ đó có nhiều hơnnhững vật chất hữu cơ được bảo quản trong trầm tích trước khi chúng có thể phân hủy. Thay vì bị mất đi vì những phản ứng hóa học thông thường, oxy đã ngày càng tăng lên trong khí quyển và đại dương.Và những "hầm mộ carbon" chôn xác sinh vật cổ đại có nguồn gốc từ đâu? Những câu trả lời được chia thành hai xu hướng: địa chất học và sinh học.

Giả thiết rằng những chuyển dịch địa chất có lẽ đã làm tăng mức oxy, cũng như tạo thành các lớp đất sét có khả năng hấp thụ các vật chất hữu cơ và bảo quản chúng bên dưới thềm đại dương. Thêm vào đó,sự hình thành một siêu lục địa kèm theo các quá trình phong hóa có thể kích thích sự sống dưới đại dương và tiếp theo đó là những "hầm mộ carbon". Những biến đổi sinh học bao gồm sự xuất hiện của địay trên đất liền (điều này cũng sẽ thúc đẩy quá trình phong hóa đá) và sự tiến hóa mới mẻ của các sinh vật phù du tạo nên một môi trường đậm đặc chất hữu cơ trong lòng đại dương.
Trước khi các nhà lịch sử về oxy có thể tìm ra sự thực từ những câu chuyện này, họ sẽ bị cuốn hút vào bản chất của sự sống cổ đại.

Một khí quyển tốt hơn cho sự sống
 
Ba mươi năm về trước, các nhà hóa học địa cầu đã vứt bỏ món súp nguyên thủy mà các nhà sinh học đã từng nghĩ rằng nó là thứ cần thiết để tạo nên sự sống đầu tiên trên Trái đất. Bây giờ, các nhà hóa học khí quyển lại đang cố gắng đem chúng trở lại. Họ đề xuất rằng, Trái đất sơ khai có thể có rất nhiều khí hydro từ núi lửa – một thành phần quan trọng trong công thức tạo nên các hợp chất hữu cơ hình thành nên sự sống đầu tiên. Việc tạo ra chất keo hữu cơ nguyên thủy nói chung là khá dễ dàng. Nếu bạn trộn methane với amoniac để được hỗn hợp giống như bầu khí quyển vẫn còn nguyên thủy của Mộc tinh, sau đó bạn cho phóng tia lửa điện qua hỗn hợp rồi thêm vào một chút nước. Thế là các hợp chất hữu cơ phức tạp, chẳng hạn như các axit amin được tạo thành. Nhưng trong những năm 1970, các nhà hóa học địa cầu đã khăng khăng cho rằng khí quyển sơ khai của Trái đất chẳng có gì giống với khí quyển của Mộc tinh cả. Carbon của Trái đất thì nằm trong khí carbon dioxide còn nitơ của nó thì ở dạng khí nitơ, khá trơ về mặt hóa học. Và khí hydro sinh ra từ trong lòng hành tinh sẽ nhanh chóng thoát ra ngoài không gian. Trái đất đã có quá nhiều oxy đến mức nó phá hoại các chất hữu cơ, và khí quyển không đủ hydro để cho phép các nguyên tử carbon liên kết lại tạo nên những polymer cần thiết cho sự sống.

Bây giờ, nhà hóa học khí quyển Feng Tian ở Đại học Colorado và các cộng sự đưa ra ý kiến rằng, hydro của Trái đất sơ khai thoát đi chậm hơn nhiều so với giả thiết trước đây. Họ chỉ ra rằng, do thiếu oxy hấp thụ năng lượng mặt trời nên phần rìa ngoài của bầu khí quyển sơ khai sẽ lạnh hơn rất nhiều so với ngày nay. Vì thiếu năng lượng nên số các nguyên tử hydro thoát ra ngoài không gian sẽ ít đi rất nhiều. Các nhà nghiên cứu cũng đã luận ra cách tính tốc độ mất hydro ra ngoài không gian. Về toàn thể, hydro sẽ thoát đi với tốc độ bằng 1/100 tốc độ đã giả định trước đây. Mà nồng độ hydro không phải chỉ là 1%, nó thậm chí có thể đạt tới 30%.Như vậy, bầu khí quyển sẽ trở nên giàu có hơn nhiều. "Kết quả cuối cùng là bạn phải thả xuống đại dương một lượng khổng lồ các hợp chất hữu cơ để tạo nên một món súp", nhóm của Brian Toon ở Đại học Colorado nói.
"Cứ nhìn bề ngoài thì những gì mà họ đã tạo ra là khá có cơ sở", nhà hóa học khí quyển Yuk Yung ở Viện Công nghệ California nói. "Đó là một công trình hay. Nó đang khiến các nhà sinh học cảm thấy vui hơn rất nhiều". Nhưng David Catling thì lại không nghĩ như vậy. "Lúc này vẫn còn là hơi sớm để khẳng định về đặc trưng hóa học tiền sinh học của bầu khí quyển giàu oxy và và một đại dương đầy các lớp keo hữu cơ", ông nói, "Tian và các cộng sự của ông đã không tính đến tất cả các nhân tố gây nên sự thoát hydro". Theo Catling, một mô hình tinh xảo hơn sẽ cho thấy rằng, tốc độ hydro thoát đi ít nhất cũng sẽ nhanh bằng tốc độ hiện nay.        
Có lẽ, thời gian sẽ đem lại cho chúng ta tất cả những câu trả lời.
  R.A.K

Nguồn: Tia sáng, số 13, 05/07/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.