Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 20/08/2005 21:22 (GMT+7)

Cách mạng tháng Tám 1945, sự ra đời một nước Việt Nam hiện đại

1. Cuộc Cách mạng khai sinh nền Dân chủ

Như một lẽ đương nhiên, khi nói tới cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 là nói tới một nền độc lập dân tộc được khẳng định với Bản Tuyên ngôn bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập”.

Nhưng với nền độc lập ấy chúng ta chỉ giành đoạt lại những giá trị vốn có từ ngàn năm và tiếp nối ý chí bất khuất của dân tộc qua ngàn đời đấu tranh chống xâm lăng bảo vệ nền tự chủ hay giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang giành lại nền độc lập dân tộc (chủ yếu với quốc gia phương Bắc). Những gì đã ghi chép trong những bộ quốc sử của dân tộc Việt Namhay ghi nhớ trong tâm thức của con người Việt Nam đều đầy ắp những tên tuổi và chiến công của công cuộc giữ nước. Lời Tuyên ngôn ở thế kỷ XX chỉ là sự khẳng định lại ý chí của lời “thơ thần” bất hủ của thế kỷ XI: “ Namquốc sơn hà Nam đế cư”. Cũng như tổ tiên, để giành lại nền độc lập, dân tộc ta phải làm một cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945 lật đổ ách thống trị của ngoại bang là phát xít Nhật và thực dân Pháp, giống như cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở thế kỷ XV lật đổ ách đô hộ của giặc Minh.

Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 còn được biểu hiện bằng một cuộc nổi dậy của toàn dân trên khắp dải đất của Tổ quốc Việt Nam vốn bị chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp cắt làm 3 kỳ. Đó cũng là một ý nghĩa rất to lớn khi nền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia Việt Nam được phục hồi. Nền thống nhất ấy là di sản của tổ tiên qua bao đời mở mang và xây đắp. Nó được khẳng định bằng võ công hiển hách của vị Hoàng đế anh hùng Quang Trung cuối thế kỷ XVIII đã chấm dứt nạn phân tranh Đàng Ngoài - Đàng Trong, đánh bại hai cuộc xâm lăng của Xiêm ở phía Tây Nam và Thanh ở mạn Bắc. Rồi nền thống nhất ấy được củng cố ở đầu thế kỷ XIX dưới triều các vua Nguyễn trước khi nền tự chủ bị tước đoạt bằng cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và sự đầu hàng từng bước của triều đình phong kiến Việt Nam vào giữa và cuối thế kỷ XIX.

Với chế độ thuộc địa, nước Việt Nambị xẻ làm 3 xứ với những chế độ chính trị khác nhau (thuộc địa cho Nam kỳ, bảo hộ cho Trung kỳ và nửa bảo hộ cho Bắc kỳ). Khôi phục và gìn giữ nền thống nhất ấy trở nên một sứ mạng thiêng liêng, một nguyên tắc không thể nhượng bộ của nhà nước Việt Namđộc lập đã được đúc kết thành chân lý: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam ”. Nhưng để bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đó, dân tộc Việt Nam đã phải chấp nhận một cuộc chiến tranh dài 30 năm mới giành lại non sông trọn vẹn sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975), rồi phải kiên cường đấu tranh hơn một thập kỷ tiếp sau mới thực sự vượt qua được những thử thách to lớn đối với sự nghiệp bảo toàn nền thống nhất và chủ quyền đối với lãnh thổ quốc gia, thành quả thiêng liêng của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

Nhưng, nếu như phải tìm một đặc trưng tiêu biểu nhất của thế kỷ XX, đặc trưng tạo nên sự khác biệt căn bản so với tất cả các thế kỷ trước đó của tiến trình ngàn năm phát triển (dựng và giữ nước) của dân tộc ta, thì đặc trưng ấy chỉ có thể là: sự xác lập lần đầu tiên một nền Dân chủ bằng một sự lựa chọn chính thể của nhà nước Việt Nam độc lập ra đời sau cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta đánh đổ xiềng xích gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

Đọc trong sử sách chúng ta từng thấy đầu thế kỷ XX, cuộc chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX dù rất kiên cường nhưng chồng chất thất bại. Đầu thế kỷ XX, cùng với nhiều dân tộc thuộc địa khác, đất nước Việt Nam đã đón nhận một luồng phong khí mới chuyển động khắp toàn cầu. Đó là ngọn triều dân chủ, trước hết đến từ phương Tây không phải bởi ân huệ khai hóa của chủ nghĩa thực dân mà từ những trào lưu tư tưởng cấp tiến (trong đó có cả những trào lưu mang tính chất xã hội chủ nghĩa) muốn vượt lên trên nền dân chủ đã được thiết kế hóa bởi những nhà nước tư sản và đã bị tha hóa bởi lợi ích thực dân để trở lại với ngọn nguồn của nền dân chủ phát sinh từ lý tưởng cao cả “tự do – bình đẳng – bác ái” mà Cách mạng tư sản Pháp 1789 là một biểu tượng.

Chính những tư tưởng dân chủ của phương Tây ấy đã được đón nhận ở các nước phương Đông mà lúc này phần lớn là thuộc địa của các quốc gia phương Tây, bằng chính nỗi khát khao muốn giải phóng khỏi ách thực dân phương Tây. Hướng tới nền dân chủ phương Tây là mẫu số chung của các phong trào dân tộc đầu thế kỷ XX. Phan Châu Trinh là một mẫu hình của sự dứt khoát tìm thấy ở nước Pháp, dù đang thống trị nước ta, những nhân tố (trước hết qua con đường hợp pháp) kêu gọi sự thức tỉnh để đạt tới mục tiêu “Pháp Việt đề huề” trước khi mưu cầu một nền độc lập về chính trị; Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, kể cả Nguyễn Thái Học... cũng đều chung một khởi điểm mang khát vọng một nền dân chủ và kết thúc đều ở những dạng thái khác nhau của sự thất bại và đón nhận những kết cục bi hùng. Ngay Phan Bội Châu dù muốn nối tiếp tinh thần bạo động không khoan nhượng với kẻ đô hộ dân tộc mình, cũng vẫn phải tìm đến những tư tưởng dân chủ của phương Tây qua những “bộ lọc” phương Đông như nền dân chủ lập hiến Nhật Bản, hay tư tưởng dân chủ của các nhà cải cách Trung Hoa. Song, dù hết lòng cầu thị sẵn sàng dấn thân tìm kiếm, nhưng cuối đời Phan Bội Châu cũng rơi vào cảnh tù hãm của Ông già Bến Ngự với những trước tác cuối cùng mơ màng đến một “chủ nghĩa xã hội” nào đó như tên gọi một trong những cuốn sách cuối cùng ông viết, nhưng phải ngay sau Cách mạng thành công mới được ấn hành... Nhưng cả hai nhà cách mạng họ Phan có cùng một niềm tin vào con đường và sự trưởng thành của một nhà cách mạng thuộc thế hệ kế tục là Nguyễn Tất Thành – Nguyễn ái Quốc - đến thời điểm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã trở thành Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cũng khởi đầu bởi sự hấp dẫn của lý tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”, nhưng con người này vượt qua được cản lực của những tư duy cổ điển của các nhà Nho, hay lớp Tây học đương thời tiếp thu thuần tuý trong sách vở, nhà trường hay những hoạt động thực tiễn mang hình thức dân tuý. Sự nhạy cảm khi bắt gặp những tư tưởng cách mạng của Lênin và Quốc tế Cộng sản đã giúp nhà cách mạng trẻ tuổi này nhập cuộc ngay với một trào lưu mạnh mẽ của một cuộc cách mạng lấy mục tiêu chống mọi sự áp bức, trong đó có sự áp bức của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa và trên cơ sở một liên minh quốc tế dưới khẩu hiệu “giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại”. Trào lưu ấy đã thu nhận Nguyễn ái Quốc đứng vào hàng ngũ những người cộng sản và hoạt động như một chiến sĩ quốc tế. Và cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản luôn được mở rộng bằng lực lượng hùng hậu của một mặt trận thống nhất dân tộc, cuộc cách mạng giành mục tiêu giải phóng dân tộc, sau nhiều thử thách, vấp váp và hy sinh, đã thành tựu trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

Nhưng nét đặc sắc của cuộc Cách mạng này là nó gắn kết một cách tài tình mục tiêu giành độc lập của dân tộc Việt Nam với mục tiêu mang tính thời đại là đứng về phía đồng minh giải phóng loài người khỏi chủ nghĩa phát xít, giành nền độc lập trước khi chủ nghĩa thực dân Pháp kịp quay trở lại và chấm dứt triệt để nền quân chủ từng tồn tại từ ngàn đời bằng sự thoái vị của Hoàng đế cuối cùng.

Sự có mặt từ rất sớm của lực lượng đồng minh là những quân nhân Hoa Kỳ trong đơn vị OSS (tình báo chiến lược) bên cạnh lực lượng cách mạng Việt Nam tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, cùng với một cách ứng xử ngoại giao cực kỳ khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ mang lại cho Nhà nước Việt Nam độc lập vị thế là thành viên của mặt trận chống phát xít trong lực lượng đồng minh chiến thắng mà còn muốn đất nước Việt Nam nhanh chóng “hội nhập” với thế giới hiện đại hình thành trong và sau cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai. Đọc văn kiện dưới đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (ngày 22/10/1945) sẽ thấy rõ điều đó: “...Những nguyên tắc cao quý của sự công bằng và bình đẳng quốc tế về địa vị được nêu trong Bản Hiến chương đã lôi cuốn mạnh mẽ nhân dân Việt Nam và góp phần làm cho cuộc kháng chiến của Việt Minh ở các vùng có chiến tranh thành một phong trào kháng Nhật rộng khắp quốc gia, có tiếng vang mạnh mẽ trong những khát vọng về dân chủ của dân chúng. Hiến chương Đại Tây Dương được xem như nền tảng của nước Việt Nam trong tương lai” ( Hồ Chí Minh toàn tập,tập 4, Nxb CTQG, H., 2002, tr.69). Chính trên cơ sở pháp lý này, nhà nước Việt Nam DCCH yêu cầu được gia nhập Liên hiệp quốc ngay sau khi giành được độc lập.

Điều đáng nói hơn nữa là, nền Dân chủ được xác lập ở Việt Nam lại là thành quả trực tiếp của một cuộc cách mạng do những người cộng sản lãnh đạo. Dường như đây là một ngoại lệ hiếm hoi và có thể duy nhất trong lịch sử thế giới? Kể từ đó, “Dân chủ” trở thành một ý niệm gắn liền với nhà nước Việt Nam hiện đại do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập kể từ cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

2. Cuộc Cách mạng khẳng định “quyền con người”

Nền Dân chủ được khai sinh từ cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 không phải chỉ được biểu hiện trên quốc hiệu xác nhận thể chế Dân chủ Cộng hòa, một thành tựu phổ quát của nền chính trị nhân loại cho đến thời điểm giữa thế kỷ XX, mà nó còn được thể chế hóa bằng cả một hệ thống chính sách nhất quán và thực tiễn sinh động của đất nước Việt Nam trong một khoảng thời gian không dài, trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12/1946).

Ai cũng biết, Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam được mở dầu bằng hai đoạn trích từ hai bản tuyên ngôn bất hủ của Cách mạng Hoa Kỳ và Pháp. Cả hai đoạn trích đều chỉ nhắc đến “quyền con người” mà không hề đả động đến nền độc lập quốc gia, dường như bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của mọi phong trào chính trị đương thời. Hai đoạn trích nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc” (Hoa Kỳ), và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Pháp).

Trích những “lẽ phải không ai chối cãi được” ấy, Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ nhằm lên án chế độ phát xít – thực dân đã tước đoạt những quyền con người của nhân dân Việt Nam mà còn nhằm xác nhận rằng quyền của con người chính là nền tảng của quyền một dân tộc: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. A.Patti, người đứng đầu cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS có mặt tại Hà Nội ngay sau ngày Tổng khởi nghĩa (20/8/1945) viết trong thiên hồi ức “Tại sao Việt Nam?”rằng khi ông độc Bản Tuyên ngôn của Việt Nam, ông thấy có sự đảo vị trí của hai từ “tự do” và “quyền sống” so với nguyên bản của Tuyên ngôn Hoa Kỳ. Khi ông đem chuyện này nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay trước Ngày lễ Độc lập (30/8/1945) thì đuợc trả lời rằng “không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do” (A.Patti – Why VietNam?– bản dịch, Nxb Đà Nẵng, 1995, tr.230). Đó là phép biện chứng trong nhận thức chính trị về quyền con người của lãnh đạo cách mạng Việt Nam ngay từ buổi đầu của nền độc lập.

“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” người đứng đầu nhà nước Việt Nam đã từng nói như vậy trong phiên họp đầu tiên của Nội các độc lập và nhắc lại trong “Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh huyện và làng” (Báo Cứu quốc, ngày 17/10/1945).

Đặt quyền của con người lên trung tâm đời sống chính trị là đặc trưng của xã hội công dân, khác một cách căn bản với một xã hội thần dân lấy sự tuân phục nhà nước đặt lên hàng đầu. Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong hàng loạt những chính sách liên quan đến việc xây dựng bộ máy nhà nước từ trung ương xuống các địa phương ngay sau sự tan rã đồng loạt bộ máy chính quyền cũ, một bộ máy được đào tạo quy củ và có cả một kinh nghiệm vận hành ngót trăm năm phục vụ lợi ích thực dân. Cho dù mới mẻ, nhưng nhà nước Việt Nam mới được xây dựng trên nguyên lý: “Nếu không có nhân dân thì nhà nước không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối... Chính phủ hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh...”.

Một bộ máy chính quyền được thiết lập với tinh thần: “Uỷ ban nhân dân là uỷ ban có nhiệm vụ thực hiện tự do dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ đó” (Báo Cứu quốc19/9/1945). và trong phiên họp đầu tiên của chính phủ (3/9/1945), vị Chủ tịch nước bộc bạch: “Sau 80 năm bị áp bức, bị bóc lột và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm. Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công”.

Và cũng ngay trong phiên họp đầu tiên này, một trong 6 nhiệm vụ được vị Chủ tịch của nhà nước Việt Nam mới tròn một ngày tuổi đã ấn định một vấn đề cấp bách hàng đầu nhằm khẳng định tính chất của nhà nước Việt Nam độc lập là một nhà nước hiện đại: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v...” Và cũng trong bài phát biểu này, nhiệm vụ thứ 6 được khẳng định: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương giáo đoàn kết” ( Toàn tập Hồ Chí Minh, sđd, tr.8-9).

Trong một tình hình chính trị vô vàn khó khăn và phức tạp, chỉ 5 tháng sau ngày tuyên ngôn độc lập, ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đã được tiến hành. Ngày 2/3/1946, phiên họp đầu tiên của Quốc hội nước VNDCCH đã được triệu tập và Hiến pháp đầu tiên trong lịc sử dân tộc Việt Nam được ban bố. Lời nói đầu của Hiến pháp nêu rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”, “Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên nguyên tắc dưới đây: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo - Đảm bảo các quyền tự do dân chủ – Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Và điều I của Hiến pháp xác định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam , không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Một người bạn Mỹ nghiên cứu lâu năm về Việt Nam, bà Lady Borton khi nghiên cứu giai đoạn lịch sử khởi đầu của nhà nước Việt Nam hiện đại đã phát hiện rằng với cách dịch của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam 1945, thì lời văn của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ do G.Washington tuyên đọc vào năm 1776 đã có một nội hàm mới. Nếu như chữ “all men” trong xã hội Mỹ thế kỷ XVIII chỉ bao hàm những người đàn ông (đương nhiên không có người da màu) có sở hữu thì trong Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã được dịch là “tất cả mọi người” (còn trong bản dịch trên tờ báo Thanh Niên trước đó 20 năm, thì Nguyễn ái Quốc dịch là “Ai cũng có”). Như vậy cũng như với nội dung được cụ thể hóa trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã đi một bước dài lịch sử khi xác định nội hàm của “tất cả mọi người” bao hàm sự không phân biệt trẻ, già, gái, trai, chính kiến, sắc tộc và tôn giáo. Vào năm 1945 đó là một trình độ tiên tiến về dân chủ và nhân quyền. Việc thực hiện một chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, trong đó người phụ nữ có quyền tham gia bình đẳng với nam giới thực sự còn là một thành tựu của một nền chính trị tiên tiến và hiện đại. Bà Lady Borton cho rằng nó mang một thông điệp có ý nghĩa: “Với việc chỉ sửa một từ trong bản dịch của mình, Cụ cho thế giới một cuộc cách mạng thứ hai: Đó là Hồ Chí Minh đã tuyên bố độc lập cho phụ nữ Việt Nam” (L.Borton - Hồ Chí Minhvà Tuyên ngôn Độc lậpViệt Nam, “Xưa&Nay”11/2000).

Đó chính là nền tảng của khối đoàn kết tạo nên sức mạnh toàn dân cho việc bảo vệ và phát triển những thành tựu của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, mà thực tiễn gần sáu thập kỷ qua là một bằng chứng về sức sống của một chính thể Việt Nam hiện đại.

Công cuộc Đổi mới diễn ra từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX cho đến nay chính là sự trở lại với những bài học và giá trị lịch sử sâu sắc của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Thiết lập nền dân chủ là thành tựu đặc sắc của cuộc cách mạng gần 60 năm, nhưng việc gìn giữ và phát huy nên dân chủ ấy trong điều kiệm một Đảng cầm quyền lại là một thử thách không đơn giản. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước mà Dân chủ hóa và Hiện đại hóa chính là hai nền tảng vững bền cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong công cuộc Đổi mới và Hội nhập hiện nay, chúng ta đang phát huy những thành quả được khởi đầu từ cách đây sáu thập kỷ.

Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay, số 218, tháng 8/2004

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.