Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 31/12/2008 00:26 (GMT+7)

Các dạng thuốc y học cổ truyền và cách dùng

Dạng thuốc thang (sắc)

Cho dược liệu vào siêu, đổ nước vừa đủ rồi sắc cho đến khi được lượng thuốc mong muốn, lược bỏ xác, uống nước còn lại lúc còn nóng. Đây là dạng thuốc phổ biến nhất vì hấp thu dễ dàng, đạt hiệu quả nhanh chóng do hoạt chất được hòa tan phần lớn vào nước dưới tác dụng của nhiệt và các vị thuốc có thể được gia giảm linh hoạt theo từng giai đoạn bệnh. Nhược điểm duy nhất là phải đun sắc lâu và khó uống đối với trẻ em.

Dạng thuốc cao

Là dạng thuốc được bào chế bằng cách cô đặc dịch chiết dược liệu (có chứa hoạt chất) đến một mức theo qui định. Y học cổ truyền chia cao thuốc ra hai loại là uống trong và dùng ngoài. Dạngcao uống có cao lỏng và cao dẻo (cao đặc). Cao uống thường là thuốc bổ hoặc trị bệnh mạn tính, có ưu điểm là sử dụng được nhiều dược liệu cùng lúc, dễ uống hơn thuốc thang, hấp thu nhanh, nhưng khóbảo quản. Dạng cao dùng ngoài có cao dán (thường dùng để dán trị các loại mụn nhọt ngoài da) và dầu cao để xoa bóp điều trị các chấn thương đụng dập phần mềm.

Dược liệu dùng nấu cao thuốc thường là thuốc phiến (thảo mộc) hoặc xương, sừng động vật đã được sơ chế đúng cách. Nấu cao thuốc phức tạp hơn sắc thuốc thang, phải qua nhiều giai đoạn.

Giai đoạn 1:Nấu thuốc và chiết lấy dung dịch nước thuốc. Thời gian nấu cho từng loại dược liệu khác nhau: thân rễ cứng nấu từ 6 - 8 giờ (2 lần), loại lá, hoa, cành nhỏ… nấu 4 - 6 giờ (2 lần), xương và sừng động vật nấu 12 - 36 giờ (3 lần).

Giai đoạn 2:cô cao thuốc. Thường cô bằng chưng cách thủy hoặc cát nóng. Trộn các nước thuốc lại với nhau rồi mới tiến hành cô.

Giai đoạn 3:thêm chất bảo quản. Chất bảo quản thường dùng cho thêm vào thuốc là đường, mật ong, cồn axit benzoic hoặc cồn 95 0C. Sau khi đóng chai, đem hấp nước sôi khoảng 30 phút là được.

Dạng thuốc hoàn

Thuốc được làm dưới dạng viên tròn với nhiều cỡ khác nhau. Dược liệu phần lớn đã được tán bột mịn hoặc có khi làm từ cao mềm các loại, sau đó thêm vào các chất tá dược để làm thành dạng viên.Mỗi chất liệu thuốc khác nhau cần dùng tá dược thích hợp: nếu thuốc tán bột thì dùng mật hoặc dung dịch hồ nếp, nếu thuốc cao mềm thì dùng tá dược khô như bột mì, bột gạo, bột Camthảo…

Sau khi làm xong viên, có thể bao viên thuốc bằng đường, sáp, các loại bột màu tự nhiên và thực phẩm, sấy nhẹ cho khô. Mục đích bao viên thuốc là để thuốc không dính vào nhau, che bớt mùi vị khó chịu của thuốc, dễ bảo quản, và làm cho viên thuốc có hình thức đẹp hơn.

Các ưu điểm của thuốc hoàn:

- Dễ bảo quản và vận chuyển.

- Tiện sử dụng bằng đường uống.

- Những dược liệu có tính cay thơm (nhiều tinh dầu) không thể sắc được như Xạ hương, Băng phiến, có thể chuyển sang bào chế dạng hoàn…

- Thuốc tan chậm nên có tác dụng ngầm dần, thường dùng chữa các bệnh mạn tính,

Nhược điểm:

Sinh khả dụng của thuốc kém. Thuốc thường bao gồm cả bã thuốc nên có tác dụng chậm và phải uống lượng nhiều.

Dạng thuốc tán bột

Là dạng thuốc mà dược liệu được tán thành bột để uống trong hay dùng ngoài. Loại uống trong thường uống với nước ấm hoặc cho vào bao vải cột kỹ bỏ vào sắc chung với thuốc thang. Loại thuốcbột dùng ngoài phải được sấy thật khô và tán thật mịn, dùng rắc lên vết thương hay thổi vào lỗ tai, lỗ mũi.

Thuốc tán bột được chia làm 2 loại:

- Bột đơn:thành phần chỉ có một vị thuốc duy nhất như bột Hoạt thạch, bột Camthảo, bột Tam thất…

- Bột kép:thành phần có 2 vị thuốc trở lên. Ví dụ Lục nhất tán ( Camthảo + Hoạt thạch), Ngũ linh tán, Ngân kiều tán…

Các ưu điểm của thuốc tán và chỉ định điều trị cũng tương tự thuốc hoàn, nhưng thuốc tán khó bảo quản hơn so với thuốc hoàn vì rất dễ hút ẩm và mốc.

Lưu ý khi bảo quản thuốc tán phải bỏ vào lọ dậy kín. Nếu cần có thể cho thêm gói hút ẩm vào trong lọ thuốc. Hoặc có thể phân liều sẵn, đóng vào từng túi nhựa hàn kín miệng để tiện sử dụng.

Dạng thuốc tễ

Là dạng thuốc dẻo, thành phần gồm có bột dược liệu sấy khô trộn thật kỹ với mật ong theo tỉ lệ nhất định rồi phân thành viên tròn hay vuông.

Phần lớn những thuốc có tác dụng bổ dưỡng cho cơ thể đều làm dưới dạng thuốc tễ. Thành phần mật ong có trong thuốc tễ vừa làm chất phụ gia kết dính, vừa tăng tác dụng bổ dưỡng và còn có tác dụng dẫn thuốc Tỳ vị (vị ngọt vào Tỳ vị). Mật ong dùng làm thuốc tễ phải là mật ong đã được luyện bằng cách thêm nước, nấu sôi, hớt bỏ bọt trên mặt, rồi tiếp tục nấu lửa nhỏ cho sôi đều đến khi lấy 1 giọt nhỏ vào chén nước lạnh thấy mật không tan ngay mà chìm xuống đáy là được. Y học cổ truyền gọi đó là mật đã thành châu.

Do có độ ngọt cao nên thuốc tễ để lâu hư, nhưng lưu ý vì viên thuốc rất ẩm nên dễ bị mốc nếu không bảo quản đúng cách. Khi bảo quản nên cho thuốc vào giấy bóng kính gói lại từng viên. Có thể cho vào trong các quả nhựa sau khi bôi một lớp dầu ăn mỏng để chống dính.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.