Các cây “xuân hoa”
Cây xuân hoa
Cây xuân hoa (H.1), tên dân gian là hoàn ngọc, nhật nguyệt, tu lình, nội đồng... Tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum(Wall.) Radlk, họ ôrô (Acanthaceat). Cây xuân hoa, một cây thuốc dân gian mà trước đây người ta được biết qua các tờ quảng cáo đánh máy truyền tay có tên “hoàn ngọc” hoặc “tu lình”... nêu tác dụng như một loại “thần dược”. Khi đó, về mặt khoa học thì cây này chưa được nghiên cứu, cả ở trong và ngoài nước. Từ năm 1992, Tiến sĩ khoa học Trần Công Khánh (trường Đại học Dược Hà Nội) và cộng sự bắt đầu nghiên cứu về thực vật, hóa học và tác dụng sinh học của cây này và đã công bố đầu tiên các kết quả thực nghiệm trên Tạp chí Thuốc & Sức khỏe số 101, năm 1997.
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy lá xuân hoa và cao toàn phần chiết xuất từ lá có tác dụng kháng vi khuẩn gram âm ( Escherichia coli, Psseudomonas aeruginosa), vi khuẩn gram dương ( Bacillus subtilis, Staphyllococcus aureus, Streptococcus pyogenes), nấm men ( Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae) và nấm mốc ( Aspergillus niger , Fusarium oxysporum, Pyricularia oryzae, Rhezoctonia solani). Về tác dụng sinh học cho thấy nó có tác dụng bảo vệ tế bào gan (trên chuột thí nghiệm) và không độc.
Người ta đã dùng lá cây xuân hoa để trị nhiễm khuẩn đường tiêu hóa như tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, viêm đại tràng mãn tính, trĩ nội, cầm máu ngoài da... Nó cũng được dùng chữa bệnh cho gia súc (tiêu chảy ở lợn, chó), gia cầm (gà, vịt), làm tăng hồng cầu, tăng hàm lượng hemoglobin và tăng trọng của lợn con sau cai sữa và giảm tỷ lệ lợn còi cọc.
Cho đến nay, ngoài hai Luận văn tốt nghiệp Dược sĩ đại học (1997) và Luận án Thạc sĩ Dược học (1999) nghiên cứu cây xuân hoa, còn có 16 bài báo liên quan đến cây này được công bố trên các tạp chí khoa học ở trong và ngoài nước.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu đã công bố, một doanh nghiệp tư nhân ở Tây Ninh đã sản xuất trà túi lọc “Hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh”, và sản phẩm đã bán trên thị trường từ nhiều năm nay.
Cây xuân hoa đỏ
![]() |
Cây xuân hoa đỏ và hộp trà “Hoàn Ngọc Ông Thọ” |
Cây xuân hoa đỏ tên khoa học là Pseuderanthemum atropurpureumRadlk., cùng họ ô rô.
Đây là cây bụi, cao 1 - 2m, lá mọc đối, phiến lá nhẵn, hình bầu dục hẹp, dài 7 - 10cm, rộng 3 - 4,5cm, màu xanh lục có các bớt màu sắc khác nhau, hoặc vàng nhạt hoặc tía nhạt; hai lá non ở ngọn có màu tía, cuống lá dài khoảng 1cm. Cụm hoa ở đầu cành, dài 5 – 8cm, mang nhiều hoa; mặt ngoài của nụ hoa có màu đỏ; ống tràng hẹp, dài 1,5cm, trên xòe 4a 5 thùy, trong đó có 2 thùy hẹp hơn thường dính lại với nhau, họng tràng màu đỏ, mặt trong của thùy có nhiều đốm đỏ và dọc giữa thùy có đường màu đỏ trên nền trắng nên nhìn xa thì cánh hoa có màu đỏ nhạt; 2 nhị hữu thụ thò ra ngoài họng tràng. Chưa thấy quả và hạt.
Theo tài liệu, cây xuân hoa đỏ có ở vùng Polynesia(quần đảo ở phía Đông châu Úc). Ảnh cây trong bài được tác giả chụp ở Philippines . Theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (tập III, trang 268, 2005) thì cây này có ở Khánh Hòa (Nha Trang). Nó cũng được trồng làm cảnh ở TP Hồ Chí Minh.
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu về thực vật, hóa học và tác dụng sinh học của cây xuân hoa đỏ. Cũng chưa thấy ai dùng cây này, nhưng theo tài liệu vừa nêu thì lá, rễ và hoa chữa lở miệng, làm lành vết thương.
Cây “hoàn ngọc đỏ”
![]() |
Cây “hoàn ngọc đỏ” |
Từ khi có các tờ rơi về cây hoàn ngọc, nhiều người không biết mặt cây nên đã nhầm cây hoàn ngọc đỏ với “hoàn ngọc” (xuân hoa). Các ông Chủ tịch Hội Y học cổ truyền tỉnh Đắc Lắc (năm 1998), Chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau (2001) và nhiều người khác cũng đã hỏi về cây này. Gần đây, tên hoàn ngọc đỏ, còn gọi là “xuân hoa đỏ” được Công ty cổ phần Sản xuất – Thương mại - Dịch vụ Hoàn Châu dùng để sản xuất trà túi lọc “Hoàn Ngọc Ông Thọ” (H.3). Cho đến nay, người ta biết nó cùng họ ô rô với 2 loài trên, nhưng chưa biết tên khoa học. Chỉ khi nào xác định được tên khoa học thì mới có thể tra cứu trong các tài liệu, nếu đã viết về cây này. Qua đó có thể nó đã có tên Việt Nam mà trong sách đã ghi. Trong khi chưa biết tên chính thức của nó, cứ tạm gọi là “ hoàn ngọc đỏ”.
Đây là một cây thân thảo, thân và cành mảnh, nhẵn, đường kính phần gốc thân khoảng 6 - 10mm, đường kính cành 2 – 3mm, thân non hơi vuông, có màu tía, đốt dài 6 - 8cm, các mấu hơi phình to. Lá nguyên, nhẵn, mọc đối, mặt trên lá màu lục thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt, hai lá non ở ngọn có màu tía; phiến lá hình thoi hẹp, hai đầu thuôn nhọn, dài 7 - 12cm, rộng 1,5 - 2,5cm, có 6 - 7 đôi gân bên nổi rõ ở mặt dưới; mép lá không có răng, gốc phiến lá men xuống sát mấu nên không rõ cuống lá. Vò lá không nhớt như cây xuân hoa (H.4).
Cây “hoàn ngọc đỏ” thường được trồng trong các vườn gia đình, từ Bắc vào Nam . Do gọi nhầm tên, nên người ta cũng dùng như cây xuân hoa.
Báo Khoa học & Đời sốngsố 34, ngày 26.4.2004 có bài và ảnh của Nguyễn Vũ về cây này. Bài báo gọi là “cây thần dược - một loại cây đa năng” dùng trị tiêu chảy, táo bón, giã lấy nước uống, bã đắp vết thương rất mau lành. Ngọn non có thể trộn với các loại rau sống khác để ăn.
Cây “Hoàn ngọc đỏ” cần được nghiên cứu toàn diện từ phân loại thực vật, thành phần hóa học và tác dụng sinh học để đánh giá những giá trị sử dụng của nó vẫn được truyền miệng trong dân gian. Khi chưa được khảo nghiệm khoa học thì không thể gắn những kết quả nghiên cứu của cây xuân hoa (hoàn ngọc) cho cây này, vì đó là hai loài hoàn toàn khác nhau.