Bình phong trong kiến trúc truyền thống Việt
Từ một huyền thoại
Năm 1636, chúa Nguyễn Phước Lan đã vì sự nghiệp phát triển của Đàng Trong và cả vì mối tình với một cô gái yêu kiều ở đất làng Kim Long mà đã quyết định dời thủ phủ - kinh đô từ Phước Yên về vùng đất tươi đẹp bên bờ con sông Hương mang tên Kim Long. Hơn 50 năm tiếp đó, thủ phủ Kim Long đã được xây dựng thành một “đô thị lớn”, phồn hoa diễm lệ bậc nhất của Đàng Trong khiến không ít giáo sĩ phương Tây khi đến đây đã tỏ ra hết sức thán phục. Vậy mà đến năm 1687, ngay sau khi kế vị, chúa Nguyễn Phước Thái đã cho dời ngay thủ phủ về đất Phú Xuân, cách đó chỉ khoảng 3km. Nguyên nhân của sự dịch chuyển này là do đâu? Các nhà nghiên cứu khi phân tích sự kiện trên đã đưa ra nhiều nguyên nhân, nhưng trong huyền thoại dân gian Huế thì dường như chỉ có một: đó là vì ngọn núi Ngự Bình vốn xưa mang tên là Bình Sơn! Ngọn núi này được trời đất tạo ra dường như là để che chắn cho kinh đô của bậc đế vương. Chính chúa Nguyễn Phước Thái là người đầu tiên nhận ra điều này và ông đã không ngần ngại cho xây dựng lại cả một kinh đô chỉ vì một chiếc bình phong! Cũng từ đó Bình Sơn mới chính thức trở thành Ngự Bình và dần dần trở thành biểu tượng của đất Huế.
Nguồn gốc của Bình phong
![]() |
Theo các nhà nghiên cứu về phong thuỷ Trung Quốc, việc sử dụng Bình phong cho gia trạch cũng như mộ phần bắt nguồn từ lý thuyết về Triềuvà Ántrong Phong thuỷ. Triều có nghĩa là “ quay về, hướng về”, viết tắt của chữ Triều Sơn, tức chỉ núi quay về, chầu về nhà cửa hay mộ phần - tựa như sự đối ứng giữa chủ và khách. Triều Sơn có nhiều loại, có loại đỉnh nhọn, đỉnh bằng, đỉnh tròn… Trong Phong thuỷ thường chỉ chuộng loại núi tròn đều hay ngang bằng bởi cho rằng loại núi nhọn hay có góc cạnh thường phát ra khí chẳng lành.
Còn “Án” vốn nguyên có nghĩa gốc là “cái bàn”, bàn đương nhiên là đặt trước mặt của người ngồi. Án sơn là để chỉ ngọn núi nhỏ ở phía trước gia trạch hay mộ phần.
Nói chung, Triềuvà Ánhết sức cần thiết cho gia trạch và mộ phần, tác dụng của chúng là ngăn cản những ảnh hưởng xấy (theo quan niệm dân gian) hay Hoả khí (theo thuyết âm dương Ngũ hành) xâm nhập trực diện từ phía trước. Nhưng không phải lúc nào Triềuvà Áncũng mang lại những điều tốt lành mà đòi hỏi phải có sự lựa chọn phù hợp nhưng việc lựa chọn này lại hoàn toàn không dễ dàng.
Thường thì mộ phần đặt ở vùng núi non nên việc chọn Triềuvà Ánkhá thuận tiện, nhưng nhà cửa gia trạch lại chủ yếu nằm ở miền đồng bằng nên rất khó tìm Triềuvà Án. Trừ trường hợp cung điện đồ sộ của nhà vua thì đương nhiên phải tìm ra Triều và Án, còn thì đa số quan lại, thường dân chỉ mong tìm được Ánđã là tốt lắm rồi. Nếu không có Án,người ta thường tạo nên những vật thay thế như đắp non bộ, trồng hàng rào hay xây bức tường ngăn… Chiếc Bình phong ra đời như vậy đấy.
Các loại Bình phong
![]() |
Nhưng phần lớn đối với các cuộc tìm đất, do không có Triều sơnnên người ta chỉ trú trọng đến Án.Đối với Kinh đô Huế, núi Ngự Bình cũng không phải là Triều Sơnmà chính là Ấn, cũng như với lăng Thiên Thọ (lăng Gia Long), Ánchính là ngọn Đại Thiên Thọ Sơn…
Thế nhưng Áncũng có 2 loại: ngoại ánvà nội án; Ngoại ánhay tiền ánlà chiếc Bình phongđặt ở phía bên ngoài, ở phía trước công trình. Còn nội ánlà chiếc Bình phong(cũng có khi gọi là Trấn phong) đặt ngay trong công trình.
Nhìn chung, đối với các công trình lớn Ngoại ánthường là các ngọn núi, có thể là núi tự nhiên để nguyên, có thể là núi tự nhiên nhưng được sửa sang lại cho phù hợp, cũng có thể là núi nhân tạo hoàn toàn như ngọn núi nhỏ đắp phía trước phần lăng vua Tự Đức. Đối với những công trình hoặc cụm công trình có quy mô nhỏ hơn thì ngoại án thường được xây dựng thành một bức bình phong bằng gạch đá, hoặc có thể là một bờ rào, hàng cây, một phiến đá…
Đối các loại bình phong được xây dựng cẩn thận bằng gạch đá, thường ngoài ý nghĩa về phong thuỷ còn là những công trình mang ý nghĩa trang trí thật sự. Về đại thể, tuy chỉ là một bức tường xây ngang nhưng kỳ thực kiểu dáng và cách thức trang trí của bình phong thì thật vô cùng phong phú. Kiểu bình phong phổ biến nhất có lẽ là kiểu cuốn thư nhưng có rất nhiều biến thể. Các đề tài trang trí trên bình phong cũng đa dạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là những con vật trong Tứ linh, gồm long - lân - phượng - quy. Tại các đình làng, các am miếu dân gian, hình tượng long mã hay hổ cũng được sử dụng rất nhiều trên bình phong.
Nội Ántức chiếc bình phong đặt bên trong công trình, ngay sau cửa chính. Dù có kiểu dáng, hành thức rất phong phú nhưng chúng đều là loại bình phong có thể di chuyển được. Chất liệu làm các loại bình phong này cũng rất đa dạng, bằng gỗ, bằng mây, bằng tre, bằng đá hoặc đá kết hợp với gỗ, thậm chí bằng đồng, bằng bạc, vàng… nhưng có thể nói, gỗ là loại chất liệu được sử dụng phổ biến hơn cả. Hầu hết các bức bình phong được sử dụng làm nội án đều được trang trí rất công phu và có giá trị nghệ thuật cao.
Căn cứ vào hình thức kiểu dáng có thể chia Nội ánthành 2 loại: loại bình phong một tấm cố định và loại bình phông nhiều tấm rời ghép thành.
Loại bình phong một tấm cố định phổ biến nhất là có kiểu cuốn thư, được làm chắc chắn, có chân cố định, khi di chuyển phải di chuyển nguyên tấm. Còn loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành thường có hình chữ nhật hoặc vuông, do 6,8 hay 10 tấm gỗ hình chữ nhật ghép lại với nhau bằng bản lề. Loại này có thể có chân hoặc không có chân, khi di chuyển có thể di chuyển cục bộ từng phần hoặc có thể tháo rời ra để tiện vận chuyển. Kiểu bình phong này hiện còn khá phổ biến tại Nhật Bản, Hàn Quốc.
Sự dụng Bình phong thế nào cho phù hợp
Đây thực sự là một bí ẩn của Phong thuỷ học. Sách vở về Phong thuỷ xưa rất hiếm khi đề cập đến điều này, các kiến thức về sử dụng Bình phong chủ yếu được truyền lại qua các thế hệ thầy Địa lý. Phỏng vấn một số thầy Địa lý có uy tín ở khu vực miền Trung thì được biết, kích thước Triều sơnkhông quan trọng lắm, chủ yếu là do dáng vẻ, thần thái của chúng tạo nên; còn kích thức của Án (kể cả ngoại ánvà nội án) thì rất quan trọng đối với chủ nhân công trình. Tuy nhiên, đối với phần đông dân chúng do không hiểu hết các nguyên lý của Phong thủy nên thường cho rằng Bình phong cốt để che kín ngôi nhà (hoặc huyệt mộ) cho ấm cúng và ngăn chặn gió độc, hay để ngăn chặn những thứ khí chẳng lành phát ra từ những vật lạ phía trước nhà (cây cối, cột mốc, đường đi…) nên việc dựng bình phông không theo quy chuẩn và kích thước phù hợp, gây mất cân đối cho công trình, ảnh hưởng đến thẩm mỹ, thậm chí gây trở ngại cho việc đi lại. Thực ra, theo Phong thuỷ,nguyên do phải đặt Bình phong (kể cả ngoại và nội án) đều nhằm cản bớt hoả khí xâm nhập quá mạnh vào nhà gây hại cho chủ nhân. Phong thuỷcăn cứ vào thuyết Ngũ Hành cho rằng, phía trước công trình thuộc Hoả (phía Nam); bên phải công trình là Kim (phía Tây), tượng cho chủ nhân; bên trái thuộc Mộc (phía Đông) tượng thê tài (vợ, tiền tài); phía sau thuộc Thuỷ (phía Bắc) tượng tử tôn (con cháu); còn trung ương thuộc Thổ. Quy định này cũng dễ hiểu vì vốn xưa nhà được đắp bằng đất (thổ); nhà sinh ra chủ (Kim), chủ sinh ra con cháu (Thuỷ) và điều khiển vợ, người làm (Mộc). Ngũ hành tương sinh hay tương khắc tuỳ thuộc khi ta đặt công trình vào các hướng cụ thể của thiên nhiên. Nếu đặt mặt trước công trình về hướng Nam (đây lại là hướng được người Việt yêu thích nhất khi làm nhà: “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam ”) thì Hoả khí càng thêm vượng, dễ gây tổn hại cho chủ nhân nên mới đặt bình phong để ngăn chặn. Còn đối với các công trình xoay mặt về hướng Bắc (nhất là các chùa) thì hầu như không sử dụng bình phong vì phía Bắc thuộc Thuỷ, mà Thuỷ lại khắc Hoả. Chính vì những nguyên lý này mà khi làm nhà (hoặc lăng mộ) người ta phải mời thầy Địa lý để có sự nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp.
Kích thước Bình phong thế nào là vừa phải?
Trong kiến trúc truyền thống, cửa giữa là cửa chính để chủ nhân ra vào nên bình phong phải làm sao che kín được cửa giữa. Kinh nghiệm của các thầy Địa lý cho biết, kích thước của của bình phong thường lấy từ kích thước của cửa giữa công trình nhưng có gia giảm để làm sao đứng từ trung tâm công trình nhìn ra thì cảm thấy bình phong vừa che kín hết cửa giữa là được.
Khoảng cách đặt bình phong (ngoại án) đối với công trình cũng khá linh động nhưng đều có căn cứ vào kích thước công trình.
Việt Nam , có lẽ Huế là nơi giữ lại được nhiều kiểu bình phong nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì Huế là Cố đô cuối cùng của Việt Nam , lại vẫn giữ được khá nguyên vẹn diện mạo của kinh đô thời quân chủ. Nhưng không chỉ trong kiến trúc cung đình mà ngay cả ở đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ… dường như nơi nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy những bức bình phong được trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế hiện nay vẫn còn giữ được một số bức bình phong tuyệt đẹp, trong đó có cả bình phong bằng loại gỗ một tấm cố định, có cả loại ghép nhiều tấm hình chữ nhật đan bằng mây trên khung gỗ, lại có cả những bức bằng đá, bằng bạc, bằng ngà voi được chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Đây thực sự là những kiệt phẩm của các nghệ nhân tiền bối mà mỗi khi đứng trước chúng ta thường có cảm giác như bị mê hoặc hút hồn. Chẳng biết do chúng quá đẹp hay do chúng đã hội tụ được phần nào những điều thần bí của Phong thuỷ?
Nguồn: Cổ vật tinh hoa, số 12, tháng 5/2005









