Cao nguyên đá Đồng Văn bao đời vẵn trơ lơ những đá xám eo xèo như thế, bỗng dưng, người Pu Péo – vì có lời thề giữ rừng – đã có được những cánh rừng già mọc như một ốc đảo xanh lạ lùng! Tại Việt Nam , dân tộc này thuộc vào trong số 4 dân tộc ít người nhất (trên cả nước, theo thống kê mới nhất, chỉ có 705 người). Bản Củng Chá là nơi có đông người Pu Péo sinh sống nhất, với hơn 140 nhân khẩu. Đứng ở bản Củng Chá, đỉnh núi án ngữ tầm nhìn trước nhà ông Phánh chính là dây núi giáp biên.
Cái xóm đẹp đến nao lòng của người Pu Péo ở Phố Là hiện ra, với khu cổng chào cong cong mái vòm, hoàn toàn bằng đá đen đẽo thành tảng vuông vức xếp rất tự nhiên. Những bức tường thành bằng đá tảng ốp hình móng lừa ở đầu bản như kiến trúc của thành nhà Hồ ở Thanh Hoá.
Xóm Củng Cha vốn nằm sát chân khu rừng cấm, muốn vào xóm phải chui qua cổng vòm bằng đá, xung quanh xóm có công sự đá xếp uốn lượn chạy tít hút vào trong rông núi. Trong xóm là những ngôi nhà lớn, đất nện, ốp viền đá tảng xanh xếp vạm vỡ dọc các viền đồi. Những cây sa mộc già nua u mấu đứng sừng sững trước cổng, trước hiên. Những bể nước đẽo bằng đá liền khối có sức chứa 4-5 m³. Những hiên nhà điệp điệp đã đẽo.
Ông Củng Dìu Pháng, gần 70 tuổi (là thiếu tá quân đội, Chỉ huy phó Huyện đội huyện Mèo Vạc đã nghỉ hưu) dẫn chúng tôi tẽ rừng đi vào những khu “biệt thự” bị bỏ hoang. Vạch cỏ rác khô lao xao trong gió chiều, chúng tôi ngỡ ngàng gặp những vuông sân khổng lồ lát toàn bằng đá tảng xanh, đẹp như một nền cung điện cổ. Những bậc cầu thang lên nhà lớn, xuống bếp nhỏ, ra bể nước còn nguyên. Nền móng cũ vẫn sừng sững, hoang phế.
Trong vài căn nhà lụp xụp, ánh huy hoàng của năm nào chưa xa vẫn còn đó: Một con nghê đá khổng lồ. Trước nhà nào ở Củng Chá cũng tạc sự tử bằng đá, dựng trước cổng như một biểu tượng cầu phúc, trừ diệt tà ma...
Lời thề trước của rừng
Và, lễ cúng diễn ra vào lúc 14 giờ chiều, do thầy cúng Củng Dìu Lèng ngoài 80 tuổi điều khiển, một nhóm thanh niên cần mẫn nghe hiệu lệnh sắm sửa trước giờ hành lễ. Đồ lễ được bầy biện trên những cái nong hoặc lá chuối rừng. Lá dải xanh ngằn ngặt khắp của rừng. Bàn thờ được dựng bằng cây trúc màu xanh, cao gần 2 mét, quay mặt về phía đỉnh núi cao, với cuồn cuộn những tán rừng nguyên sinh xanh sẫm, đùng đục trong sương khói.
Những vuông cơm tẻ giã nhuyễn, nặn thành bánh, xắt khúc được bày biện cẩn thận trong những cái nong tròn. Nhiều miếng cơm được xếp thành hàng thành lối trên lá chuối tươi.
Ông Lèng bảo, mỗi nắm cơm tượng trưng cho một vị thần, người Pu Péo theo tín ngưỡng đa thần, thần Rừng, thần Trời, thần Đất, thần Suối, thần Gió... Trên mỗi nắm cơm là một mẩu trứng gà luộc (quả trứng luộc, bóc vỏ, sau đó xắt ra). Dưới chân bàn thờ làm bằng trúc tươi, lót lá chuối tươi xanh, có buộc hai con gà vẫn còn sống nguyên, mỗi con gà buộc dây, cắm vào một cái cọc. Xung quanh là bình rượu và những cái chén.
Cách bàn thờ một chút, là một cái cọc khác, có buộc một con dê cái vẫn sống, lông mầu đen. con dê cứ kêu be be liên tục. Lễ cúng bắt đầu, nó kéo dài vài tiếng đồng hồ, ông Củng Díu Lèng cứ cầm một cành trúc tương xanh, còn nguyên cả là loà xoà, khua đi khua lại suốt thời gian hành lễ. Có lúc tay ông cầm một quả bầu khô.
Lời cúng rù rì, có lúc vang xa bay ngược lên các triền rừng già. Lễ cúng chia làm ba giai đoạn, đoạn đầu cả con gà và con dê cái còn sống nguyên; đoạn hai, chúng đã bị đám thanh niên cắt tiết; đoạn ba, gà được luộc thơm phức, dê được thui vàng ruộm.
Bữa tiệc núi rừng linh đình, hoang sơ diễn ra giữa trời đất, bên bìa rừng những người có mặt phải ăn hết thịt, uống hết rượu ngay tại bãi cỏ xanh bìa rừng để cầu may mắn.
Ông Lèng dịch nghĩa bài cúng: Thần Trời, thần Đất, thần Rừng về chứng kiến lễ cúng, hưởng thịt gà, thịt dê và phù hộ cho con người khoẻ mạnh, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Cầu cho rừng ngày một xanh tốt chở che cho con người. Bà con thôn Củng Chá xin thề trước thần Rừng sẽ giữ gìn rừng thật tốt, ai săn bắn, chặt cây trong rừng sẽ bị thần Rừng trừng phạt. Rừng tốt tươi, trời đất giao hoà, bảo hộ cho cuộc sống của bà con Củng Chá. Mưa không gây lũ, nắng không gây hạn, bão gió sấm sét không đánh chết người...
“Ơ các thần thánh tổ tiên (...) / Đừng cho sét đánh xuống ruộng./ Gió, đừng cho nó to./ Bão, đừng cho nó lớn./ Mưa, đừng cho nó nhiều. / Nước vào ruộng, nước đủ cho lúa uống/Nắng, đừng cho hạn hán./ Thấy gió về, đẩy gió lên núi./ Thấy mưa nhiều, đuổi nước xuống khe./Thấy bão về thì quạt bão đi”...
Suốt cuộc đời người Pu Péo gắn với rừng. Bà con quan niệm rất rõ, họ chỉ cúng tổ tiên 5 đời trờ lại trong nhà mình; còn tổ tiên trước 5 đời, các vị thường ở trong rừng, ngụ tại các gốc cây đa to. Cho nên, tín ngưỡng giữ rừng, cúng rừng, với người Pu Péo cũng chính là cúng tổ tiên (?).
Bởi nữa, người Pu Péo coi rừng là nơi trú ngụ của tổ tiên, của nhiều vị thần; là nơi giao hoà giữa trời và đất.
Có người phỏng đoán, sở dĩ người Pu Péo tôn trọng thiên nhiên, môi trường như thế, là vì trong các bài cúng hiện diện như những áng cổ văn của họ, đều có câu chuyện về một cơn đại hồng thuỷ huỷ diệt thế giới.
Chuyện kể rằng, có hai chị em thủy tổ của người Pu Péo rất tốt bụng. Họ dù nghèo khó, giữa giá rét, vẫn rộng lòng đan một cái nong cho bà lão ốm yếu nhờ độ đường ở nhờ trong nhiều ngày. Bà cụ còng lưng, nằm vào cái nong rất vừa vặn. Trước lúc chia tay, bà lão bảo hai chị em người Pu Péo tốt bụng rằng: sắp có một cơn đại hồng thuỷ ập đến, các con hãy chui vào quả bầu lớn mà lướt đi trên sóng nước.
Từ khi sống sót, người Pu Péo bao giờ cũng bày lễ cúng rừng cầu mong không có thảm hoạ đại hồng thuỷ; đồng thời biện lễ trên một cái nong tròn.
Tôi rời rừng cấm. Sương mù luênh loãng. Không một ai bẻ một cành củi trong rừng cấm. Ông Củng Díu Xuyền lừ khừ khoác áo lạnh ra chào khách. Khách ngước lên các tán sa mộc. Những góc nhà với ống khói, bếp sưởi rất “Phố Phái”, những mái ngón cong như ngôi chùa cổ; thêm hệ thống kiến trúc bằng đá tảng xanh phụ hoạ vào bối cảnh khiến chúng tôi ngỡ cụ Xuyền là một lãnh chúa ưu thời trong một thái ấp xa xôi.
Cụ và bà con Củng Chá cứ tựa lưng vào cánh rừng thiêng rộng lòng bao dung của mình mà vui sống.