Áp lực môi trường từ hoạt động các khu công nghiệp
Tuy nhiên, với đặc thù là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp đa ngành, đa lĩnh vực, các KCN có nguy cơ phát thải một lượng lớn các chất gây ô nhiễm ra môi trường nếu công tác bảo vệ môi trường (BVMT) không được quán triệt và thực thi nghiêm túc. Thực tế ở nước ta cho thấy, sự phát triển của các KCN đã tạo sức ép không nhỏ đối với môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc sống của cộng đồng xung quanh và tác động xấu lên hệ sinh thái nông nghiệp và thủy sinh.
Ô nhiễm môi trường KCN: Mối đe dọa đối với toàn xã hội
Nói đến ô nhiễm môi trường từ các KCN hiện nay, vấn đề được đề cập đến nhiều nhất là nước thải sản xuất không qua xử lý xả thẳng ra môi trường. Tỷ lệ các KCN có trạm xử lý nước tập trung ở nước ta chỉ đạt khoảng 43%, trong đó rất nhiều các KCN đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hạng mục này hoặc không vận hành hệ thống này. Nhiều KCN có hệ thống xử lý nước thải nhưng tỷ lệ đấu nối của các doanh nghiệp trong KCN còn thấp. Theo đánh giá sơ bộ, chỉ 50% các hệ thống xử lý nước thải tập trung hiện nay là đạt tiêu chuẩn.
Hàng ngày, có đến 70% trong số hơn 1 triệu m 3nước thải từ các KCN xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý đã gây ô nhiễm môi trường nước mặt. Nước thải có đặc trưng là thành phần rất đa dạng, chủ yếu là các chất lơ lửng, chất hữu cơ, dầu mỡ và còn chứa một số kim loại nặng nguy hại đe doạ chất lượng môi trường. Kết quả phân tích mẫu nước thải từ các KCN cho thấy, các thông số ô nhiễm đều cao, đặc biệt với các KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì các thông số này đều vượt QCVN, có nơi đến hàng chục hoặc hàng trăm lần.
Thực tế theo dõi chất lượng nước mặt tại những vùng chịu tác động của nguồn nước thải từ các KCN cho thấy, tại hầu hết các khu vực quan trắc chất lượng môi trường đã suy thoái đáng kể. Đặc biệt tại 3 lưu vực sông lớn là Đồng Nai, Cầu và Nhuệ - Đáy, những khu vực chịu tác động của nước thải KCN có chất lượng nước sông bị suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu ô nhiễm như BOD 5, COD, NH +4, tổng N, tổng P đều cao hơn QCVN nhiều lần. Bên cạnh đó, khí thải và chất thải rắn từ các KCN cũng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đáng kể, tuy nhiên tình hình chưa nghiêm trọng như đối với vấn đề ô nhiễm nước.
Ô nhiễm không khí ở các KCN thường mang tính cục bộ trong nội vi vùng sản xuất do hầu hết các KCN đã được quy hoạch tách biệt khu dân cư. Mối đe doạ ô nhiễm không khí tập trung nhiều ở các KCN cũ, do các nhà máy trong KCN sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa đầu tư hệ thống xử lý khí thải, chủ yếu là ô nhiễm bụi và một số điểm có biểu hiện ô nhiễm CO, SO 2-. Chưa phát hiện thấy ô nhiễm tiếng ồn tại các điểm quan trắc gần các KCN.
Khối lượng chất thải rắn từ các KCN cũng có nhiều hướng gia tăng, tập trung nhiều nhất tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, lượng chất thải rắn phát sinh chiếm tỷ trọng lên tới gần 3.000 tấn/ngày. Trong đó, thành phần chất thải rắn nguy hại chiếm khoảng 20%, tỷ lệ chất thải rắn có thể tái chế hoặc tái sử dụng khá cao nhưng chưa được tận dụng do thực trạng thu gom, vận chuyển và tái sử dụng chất thải rắn tại các KCN còn nhiều bất cập.
Những hệ luỵ tất yếu
Nước thải sản xuất không qua xử lý xả thải trực tiếp vào môi trường đã làm tác động đến các động vật thuỷ sinh, gây thiệt hại đáng kể tới hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản của các khu vực lân cận.
Tại KCN Phố Nối A, Hưng yên, đến năm 2009 đã có 77% diện tích được lấp đầy và đi vào hoạt động nhưng việc xử lý nước thải vẫn bị xem nhẹ. Công suất của hệ thống xử lý nước thải tập trung (xây dựng từ năm 2008) không đáp ứng được nhu cầu thực tế, một số doanh nghiệp trong KCN chưa đấu nối hệ thống nước thải với nhà máy xử lý mà nước thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nặng các dòng sông, trong đó chịu ảnh hưởng nhiều nhất là sông Bàn và sông Bắc Hưng Hải. Theo đánh giá, nguồn nước trên hai dòng sông này và hệ thống kênh mương, sông hồ trong khu vực không đạt tiêu chuẩn B1 (QCVN 08:2008), không còn khả năng tưới tiêu cho nông nghiệp. Hàng chục kênh mương đã biến thành dòng nước chết, bốc mùi hôi tanh khó chịu. Nước chảy đến đâu, cá tôm chết nổi đến đó, cây trồng cũng héo rũ. Trên địa bàn Văn Lâm, Mỹ Hào do hệ thống thuỷ lợi bị ô nhiễm không thể tưới tiêu phục vụ sản xuất, hàng chục ha đất canh tác phải bỏ hoang.
Ở khu vực miền Trung, trong hai năm 2006 và năm 2007, KCN Điện Nam-Điện Ngọc cũng nổi lên như một điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Trong giai đoạn này, KCN vẫn chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Toàn bộ nước thải của KCN thải trực tiếp ra môi trường đã khiến người dân xung quanh phải gánh chịu. Con mương dẫn nước thải của KCN chảy tự do ra sông Ngân Hà, làm dòng sông trở nên đen kịt. Các loài thuỷ sản (cá, tôm…) không thể tồn tại. Trạm bơm Tứ Câu gần như ngừng hoạt động vì nguồn nước bị ô nhiễm không thể tưới tiêu cho gần 200 ha ruộng của Điện Ngọc 1 và Điện Ngọc 2. Tuy nhiên, từ năm 2008, với việc đưa vào sử dụng Nhà máy xử lý nước thải giai đoạn I của KCN, vấn đề ô nhiễm môi trường ở khu vực này đã bước đầu được khắc phục.
Mặt khác, ô nhiễm môi trường này đã làm gia tăng gánh nặng bệnh tật, gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh đang lao động tại chính KCN và cộng đồng dân cư sống gần đó, từ đó gây ra tổn thất kinh tế cho khám chữa bệnh và các thiệt hại thu nhập do bị bệnh. Thiệt hại kinh tế trung bình cho mỗi người dân trong một năm ở vùng chịu tác động của các nhà máy (phường Thọ Sơn) cao gấp 3,5 lần so với vùng không chịu tác động (phường Gia Cẩm).
Tuy nhiên, các số liệu điều tra hiện nay còn hạn chế, các nghiên cứu cũng chưa đầy đủ nên chưa thể hiện được các tác hại của ô nhiễm do hoạt động KCN một cách rõ ràng và riêng biệt. Đây là hạn chế lớn cản trở hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường KCN.
Giải pháp đối phó hiệu quả với vấn đề môi trường KCN
Hiện nay, hệ thống quản lý nhà nước đối với các KCN còn nhiều bất cập. Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực BVMT KCN còn chưa đầy đủ. Quy hoạch phát triển KCN đã có nhưng chưa thống nhất và thiếu khoa học: Quy hoạch tổng thể do Chính phủ duyệt, nhưng việc cấp đất do UBND tỉnh thực hiện, duyệt quy hoạch đất KCN là của Bộ Xây dựng và cấp phép đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Mặt khác, việc phân cấp trách nhiệm đối với các đơn vị có liên quan trong BVMT KCN chưa rõ ràng, chức năng của các đơn vị tham gia quản lý còn chồng chéo. Nguồn nhân lực cho công tác BVMT KCN còn yếu, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Vì vậy, việc giám sát công tác BVMT đối với các KCN phần nào bị buông lỏng. Tình trạng các KCN vi phạm các cam kết BVMT, xả thải các chất ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến. Các công cụ tính phí và xử phạt các đơn vị gây ô nhiễm còn nhẹ, chưa có tính răn đe và ngăn chặn xu hướng tiếp diễn các hành vi huỷ hoại môi trường.
Để khắc phục những bất cập và khó khăn thách thức trên, các giải pháp quản lý và BVMT cần được thực hiện đồng bộ và kiên quyết, đồng thời cần có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý môi trường từ cấp trung ương đến địa phương và sự tham gia đóng góp ý kiến và sự đồng thuận của các KCN và doanh nghiệp trong KCN. Các giải pháp ưu tiên trước mắt gồm:
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn bản chính sách, pháp luật, bao gồm cả việc sửa đổi một số điều của Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn, nhất là vấn đề phân cấp quản lý môi trường các KCN theo hướng tổ chức quản lý tập trung và công tác tổ chức thanh tra môi trường liên quan.
Khẩn trương hoàn tất công tác uỷ quyền quản lý môi trường cho BQL các KCN theo quy định; các BQL các KCN cần nhanh chóng thành lập đơn vị chuyên trách về môi trường và tạo điều kiện thuận lợi về tổ chức hay hoạt động;
Thực hiện đồng bộ việc quy hoạch KCN gắn với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và BVMT, trước mắt bổ sung việc đánh giá môi trường chiến lược đối với quy hoạch phát triển các KCN;
Tăng cường thực thi pháp luật về BVMT KCN, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường KCN, tổ chức công bố thông tin về môi trường KCN theo quy định.