Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX
Lịch sử nghiên cứu
Trong thể chế phong kiến đứng đầu là Hoàng đế của mỗi triều đại, giá trị của ấn chương đã được nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng. Hầu hết các bộ chính sử của nước ta đều ghi lại việc chế tác và sử dụng Bảo Tỷ, ấn chương của vua và triều thần. Việc ghi chép này thường sơ lược như một số sự kiện khác mà sử quan phải làm.
Thời Nguyễn, các thành viên ở Nội các đã hoàn thành bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệđồ sộ, trong đó quyển 83 và 84 ghi khá rõ về Bảo Tỷ, ấn triện các loại thời Nguyễn. Đây được coi là phần ghi chép đầy đủ nhất về ấn chương trong các bộ sách sử. Tuy nhiên, đây cũng chỉ được coi là một số quy định và ghi chép sơ lược về ấn chương thời Nguyễn chứ chưa phải là một phần của công trình nghiên cứu ấn chương.
Cuối thời Nguyễn một học giả Pháp là Piere Daudin đã giới thiệu đề tài này trong Bulletin de la Société des Etudes Inchochinoises(1). Mặc dù ở thời điểm thuận lợi nhưng tác giả không trình bày sâu về ấn chương mà ông chỉ giới thiệu sơ lược một vài loại hình ấn như Kim ngọc Bảo Tỷ, Tín ký và thống kê các chức vụ phẩm hàm của quan lại trong triều đình nhà Nguyễn. Cách đánh giá của ông thể hiện sự nhìn nhận tổng thể của một học giả châu Âu đối với vương triều Nguyễn lúc đó, đây là tài liệu tham khảo có giá trị, so với tất cả các bài viết của các tác giả khác về ấn chương thời Nguyễn.
Sau Pierre Daudin, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã công bố một số tài liệu có in hình dấu thời Tây Sơn trong cuốn La Sơn phu tử(2). Tuy tác giả không trình bày sâu về ấn chương Tây Sơn nhưng việc giới thiệu một số văn bản và hình dấu cũng giúp ích nhiều cho chúng tôi về việc so sánh nghiên cứu ấn chương giai đoạn này.
Giáo sư Trần Kinh Hoà là người đầu tiên khai thác cho Châu bản quý giá triều Nguyễn và làm sách Mục lục Châu bản triều Nguyễn - Triều Gia Long(3). Tác giả trình bày sơ lược một số Bảo Tỷ thời Nguyễn triều Gia Long nằm trong phần đầu giới thiệu Châu bản và Nội các. Đoạn nói về Bảo Tỷ tuy sơ lược, nhưng là tài liệu tham khảo có giá trị.
Mấy chục năm qua cũng có số ít tác giả đã giới thiệu về ấn chương Việt Nam trong những bài viết đơn lẻ. Đáng chú ý là những bài như: Một số ấn đồng thời Lê Thánh Tông mới phát hiện tại Hà Nộivà bài Bước đầu tìm hiểu các ấn đồng cổ đã biết được ở nước tacủa Nguyễn Văn Huyên (4). Trong bài viết tác giả chỉ giới thiệu một số ít ấn đồng cổ trước thời Nguyễn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Hà Nội và có những nhận xét chung.
Như vậy, cho đến nay có rất ít bài nói về ấn chương và chưa có một tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu ấn chương Việt Nam thành một đề tài có hệ thống.
Hiện vật ấn chương khối tư liệu hiện vật quý
Tháng 3 năm 1974, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Ty Văn hoá Thanh Hoá đã tiến hành khai quật tại hai địa điểm Hoa Lộc và Phú Lộc nằm ở ven biển huyện Hậu Lộc – Thanh Hoá. Đây là những địa điểm được xác định có di tích hậu kỳ thời đại đồ đá mới. Tại đây đã phát hiện nhiều hiện vật là công cụ sản xuất, đồ trang sức bằng đá và một số cổ vật bằng gốm trong đó đặc biệt đã tìm thấy các con dấu hoa văn bằng đất nung. Ở địa điểm Hoa Lộc đã tìm thấy 11 con dấu hoa văn, còn ở Phú Lộc đã tìm thấy 14 con dấu hoa văn khác cùng 5 mảnh vỡ nhỏ của các con dấu nữa bị vỡ.
Năm 1977 hai nhà khảo cổ học Phạm Văn Kỉnh và Quang Văn Cậy đã giới thiệu các con dấu hoa văn trên dưới góc độ khảo cổ trong sách Văn hoá Hoa Lộc: “Đây là loại hiện vật được làm bằng đất nung là loại đất sét pha trộn cát giống như chất liệu làm đồ gốm cùng tồn tại với chúng. Độ nung khá cao, rất rắn và màu sắc không hoàn toàn giống nhau. Căn cứ vào sự cấu tạo hình dáng và những đường nết khác trên mặt của chúng, có thể đó là những vật dùng để in hoa văn.
Hình dáng của những dấu in này rất khác nhau và kích thước cũng không đều nhau. Một số chiếc có mặt in hình chữ nhật, một số hình bầu dục, một số có hình tròn và một số có hình vuông. Mặt in hơi lồi ra một chút và trên đó có khắc nhiều hoạ tiết rất khác nhau và cũng rất phức tạp. Lưng nổi cao lên như hình mu rùa mà ở giữa lưng trong đa số trường hợp đều có những núm nhỏ hình chóp hoặc hình bầu dục dẹt vừa cầm ở các đầu ngón tay, loại núm hình bán khuyên tương đối hiếm.
Những hoạ tiết trên mặt những con dấu này được khắc lõm khá sâu và đều đặn. Tất cả đều là những hoa văn hình kỷ hà rất phức tạp và cũng rất kỳ lạ nhưng không giống nhau giữa các tiêu bản. Không thấy có hoa văn hình người, động vật và cây lá.
Nhìn chung đó là những vật không được trau chuốt cẩn thận, cầu kỳ, hình dáng đơn giản, chất liệu thông dung, ít tốn kém. Bởi vậy, chỉ có thể coi những hiện vật này là những đồ dùng bình thường trong sinh hoạt hàng ngày, không thể coi là những vật thiêng tượng trưng cho uy quyền nào đó.
Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa xác định công dụng của những vật này một cách cụ thể. Tạm thời chúng tôi cho rằng đây không phải là những dấu in hoặc những bản dập hoa văn trên đồ gốm, bởi vì trên tất cả các đồ gốm cùng tồn tại với nó không thấy có những hoa văn giống như các hoạ tiết trên mặt những con dấu này. Dựa theo tài liệu dân tộc học, có thể đây là những con dấu dùng để in hoa văn trang trí trên nền vải hoặc trên người theo những phong tục có tính chất nghệ thuật hoặc tôn giáo nào đó...” (5).
Qua nghiên cứu xác định bằng các-bon phóng xạ tất cả các hiện vật, trong đó có các con dấu in hoa văn trên, các nhà khảo cổ học đã ước định được niên đại của chúng sớm nhất trong khoảng thế kỷ XV-XVI (TCN). Hai nhà khảo cổ học còn khẳng định “Với văn hoá Hoa Lộc, chúng ta đã phát hiện được những di tích đầu tiên của những bộ lạc sinh tụ trên miền ven biển thuộc miền Bắc tỉnh Thanh Hoá trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II (TCN), họ đang sống trong giai đoạn cuối cùng của thời đại đồ đá và chuẩn bị bước sang thời đại kim khí. Đó là những bộ lạc mà về mặt văn hoá và cũng có thể cả về mặt thân tộc có những quan hệ với những bộ lạc khác cùng thời đại sinh tụ trên miền Bắc nước ta. Những mối quan hệ đó đã phản ánh những phong cách văn hoá trong những di vật tìm thấy ở đây”. Hơn 24 con dấu mà trên mặt được khắc hình hoạ tiết rất đẹp và phức tạp đều có mang những ý nghĩa nhất định. Song những ý nghĩa này chúng ta không thể biết được, chỉ đoán định rằng nó gắn với văn hoá tinh thần của người Hoa Lộc cổ xưa. Đây không phải là những tín vật làm bằng chứng, cũng không phải là bán dấu in trên đồ gốm mà có thể nó là những con dấu dùng để in hoa văn màu trên vải hoặc trên thân thể người theo phong tục có ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng hoặc nghệ thuật. Nhận xét này của các nhà khảo cổ là hợp lý. Đây có thể được coi là tiền thân của ấn chương xuất hiện tại Việt Nam .
Sự ra đời của ấn chương Việt Nam gắn liền với việc sử dụng chữ Hán trong giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Ở nước ta, chữ Hán đã có mặt từ đầu thế kỷ thứ nhất TCN, khi Triệu Đà đã hoàn thành việc thôn tính Việt Nam(thế kỷ II – TCN) chữ Triện đã được sử dụng trên đất nước Việt Nam . Sau này nước ta giành được quyền độc lập, chữ Hán, tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) vẫn được tiếp tục sử dụng để xây dựng quốc gia độc lập và phát triển văn hoá dân tộc.
![]() |
Ấn và dấu Apramada, Raksanya. |
Di chỉ văn hoá Óc Eo thuộc huyện Thoại Sơn, Nam Bộ cũng đã được các nhà khảo cổ khai quật và giới thiệu 22 con dấu khác nhau bằng mã não và chì thiếc và chỉ có 4 con dấu là có khắc chữ. Những con dấu này đã được xác định niên đại vào khoảng từ 270 đến năm 530 sau CN, nhưng chưa được giới thiệu chi tiết và giải mã văn tự trên dấu (6). Năm 1996 Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố việc giải mã 2 con dấu bằng chì thiếc có khắc văn tự trong số các con dấu trên trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996: “... Con dấu thứ nhất... Tôi có thể nhận ra chữ ở trên con dấu là “Apramada”. Đây là chữ viết theo văn tự Pallaca Nam Ấn. (Nếu viết theo Devanagari hiện nay, ta có... Từ này trong tiếng Sanskrit có nghĩa là “chú ý”. Theo Malleret: “chữ Aprmadam khá phổ biến trên các bùa của chúng ta, người ta biết rằng nó là một trong những từ chủ chốt của Phật giáo biểu đạt khái niệm cảnh giác vốn rất cần bên ngoài cả các khái niệm tôn giáo hay triết học mà ngay trong cách ứng xử của cuộc sống” (Malleret 1960: 332).
Về con dấu thứ hai, GS. Hà Văn Tấn khẳng định: “Đó là từ “Raksanya” trong ngôn ngữ Sanskrit và được viết bằng chữ Pallava. Từ này có nghĩa là “được che chở, bảo vệ”, có lẽ là một từ cầu xin với thần linh, có tính chất tôn giáo, như nhiều từ gặp trên các con dấu khác ở Óc Eo”.
Các triều đại phong kiến Việt Nam từ Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng, Tây Sơn đến Nguyễn. Thời gian tuy chưa phải là xa lắm nhưng vì binh hoả triền miên nên những hiện vật quý giá như ấn chương hầu hết bị chôn vùi, thất thoát.
Trong một chuyến công tác đến Quảng Tây - Trung Quốc, GS Hà Văn Tấn đã tìm thấy dấu tích quả ấn đồng thời Trần của Việt Nam hiện lưu lạc ở đất Quảng Tây. Quả ấn này được tìm thấy ở núi Lộng Lạc, thuộc công xã Nghĩa Vu, huyện Điền Đông, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc năm 1983. Đến năm 1999 trên cơ sở bài Khảo về ấn của thổ quan phát hiện ở Quảng Tâycủa học giả Nhật Bản Taniguchi Fusao (7), Hà Văn Tấn đã viết bài Về một quả ấn Việt Nam thời Trần tìm thấy ở Quảng Tây Trung Quốc. Phần cuối ghĩ rõ: “Quả ấn có mặt hình vuông, mỗi chiều 50mm, dày 10mm, núm ấn cao 26mm. Mặt ấn khắc 6 chữ theo lối triện “Bình Tường thổ châu chi ấn” chia thành 2 dòng mỗi dòng 3 chữ. Mặt lưng, hai bên núm ấn, có khắc chữ. Bên phải núm ấn là chữ “Đại Trị ngũ niên”, bên trái núm ấn là 5 chữ “Nhâm Dần tứ nguyệt chú”.
Đại Trị là niên hiệu của vua Dụ Tông. Đại Trị ngũ niên là năm Đại Trị thứ năm, tương đương với năm Chí Chính thứ 22 đời Nguyên Thuận Tông, tức năm 1362 dương lịch. Năm đó cũng là năm Nhâm Dần. “Nhâm Dần tứ nguyệt chú” là “Đúc tháng tư năm Nhâm Dần”. Nhìn kỹ ảnh chụp, tôi thấy ở đây chữ “nguyệt” khắc thiếu một nét ngang, đúng với thể lệ viết huý thời Trần.
Như vậy, đây là một con dấu đời Trần không nghi ngờ gì nữa. Thổ châu là châu ở miền núi, trong vùng các dân tộc ít người, mà ở đây hẳn là người Tày. Vấn đề ta quan tâm là châu Bình Tường ở đâu?... Theo tôi, châu Bình Tường chính là Bằng Tường hiện nay. Có một lý do mà người Việt nam ai cũng biết là các địa danh có từ Bằng ở vùng biên giới Việt Nam đều viết chữ Hán là Bình, như Cao Bằng từ lâu đã được viết là Cao Bình” (8).
Cho đến ngày nay, số lượng những quả ấn từ thời nhà Trần đến triều Tây Sơn còn lại không nhiều. Hiện nay tại một số cơ quan Bảo tàng thuộc Bộ Văn hoá còn lưu giữ được một số ấn đồng cổ, những ấn cổ này đã được xác định niên đại chính xác. Đầu tiên phải kể đến ấn Môn hạ sảnh ấnđược tạo năm Long Khánh thứ 5 đời Trần Duệ Tông (1377). Các ấn thời Lê sơ là Thuần tượng hậu vệ bào lâm hậu sở ấnđúc năm Hồng Đức thứ 24 đời Lê Thánh Tông (1493), ấn Phụng mệnh tuần phủ đô tướng quân ấntạo năm Hồng Thuận thứ 6 (1514) và ấn Đề thống tướng quân chi ấnđược đúc năm Hồng Thuận thứ 7 (1515).
Ba quả ấn thời Mạc còn bảo quản được là Hoàng hải hậu sở chi ấnđúc năm Đại Chính thứ 5 (1534), ấn Thanh tái tả sở chi ấnđúc năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549) và ấn Khuông trị vệ lăng xuyên tiền sở chi ấnđược tạo năm Thuần Phúc thứ 3 (1564).
Hiện vật ấn chương thời Tây Sơn còn lại là 4 quả ấn đồng được lưu giữ ở những địa phương khác nhau trong đó có 3 ấn tướng lĩnh quân đội và một ấn hành chính cấp huyện. Đó là ấn Suất trung lương nhị vệ tam hiệu trung lang tướng, Suất hùng cự khai vệ ngũ hiệu đô ti, Tây kỳ phủ trung tín nhất vệ hộ quân sứ vinh hoa hầu và Bằng Tuyền huyện quản lý. Các ấn đồng này được tạo cùng một thời gian là năm Tân Hợi 1791 niên hiệu Quang Trung.
![]() |
Sách Ấn chương Việt Nam |
Hiện vật ấn chương thời Nguyễn và các triều đại trước Nguyễn là khối tư liệu hiện vật quý giá rất đáng tin cậy. Mỗi một quả ấn khi in xuống giấy, lụa sẽ cho ra đời một văn bản Hán Nôm hoàn thiện, cô đọng. Những dòng chữ Hán khắc trên mặt ấn sẽ giúp ích cho việc xác định niên đại, cơ quan và địa chỉ tạo ấn, trọng lượng của ấn và nhiều khi giúp cho việc Chân hoá chữ Triện được chuẩn xác. Hiện vật ấn chương đóng vai trò quan trọng trong công tác nghiên cứu ấn chương Việt Nam và xây dựng bộ môn ấn chương học của chúng ta hiện nay.
__________________
* Nguyễn Công Việt. Ấn chương Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, HN, 2005, 512 tr.
1. BSEL, tập 22, số 1 năm 1937, Thư viện Thông tin KHXH.
2. Hoàng Xuân Hãn: La Sơn Phu tử. NXB Minh Tân, Paris, 1952.
3. Mục lục Châu bản triều Nguyễn - Triều Gia Long, Trần Kinh Hoà, NXB Đại học Huế, 1960.
4. Nguyễn Văn Huyên: Nghiên cứu lịch sửsố 158, năm 1974 và Tạp chí Khảo cổ học, số 2 năm 1976.
5. Phạm Văn Kỉnh, Quang Văn Cậy, Văn hoá Hoa Lộc, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, 1977, tr. 71.
6. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải: Văn hoá Óc Eo những khám phá mới. NXB KHXH, HN, 1995, tr.330.
7. Tanaguchi Fusao, Nghiên cứu niên báo của Sở Nghiên cứu Văn hoá Á Phi, trường Đại học Tokyo, số 31, tháng 3, năm 1997, tr. 176 - 188.
8. Hà Văn Tấn, Về một quả ấn Việt Nam thời Trần tìm thấy ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1999, NXB KHXH, H.2000.
Nguồn: Xưa & Nay, số 259,5/2006, tr 23 - 26