Miếu Lịch Đại Đế Vương - Một di tích kiến trúc độc đáo của quốc gia
Nguyên cái tên Lịch Đợi là do đọc trại từ hai chữ Lịch Đại – tên gọi tắt của miếu Lịch Đại Đế Vương. Đây là ngôi miếu do triều Nguyễn lập ra để thờ các đấng minh quân trong lịch sử Việt Nam và Trung Hoa. Theo sử sách triều Nguyễn, miếu Lịch Đại Đế Vương được dựng từ năm Minh Mạng thứ 4 (1823) trên địa phận xã Dương Xuân, phía nam, ngoài Kinh thành Huế. Miếu có quy chế nghiêm ngặt và được xếp vào hàng Liệt miếu - tức ngang hàng các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn.
Quy mô xây dựng của miếu khá lớn. Đó chính là một tòa nhà kép kiểu trùng thiềm điệp ốc, một hình thức quen thuộc của kiến trúc cung điện Huế. Miếu xây mặt hướng nam; chính đường 5 gian hai chái kép, tiền đường 7 gian 2 chái đơn; nền miếu cao 2 thước 2 tấc (khoảng1m), mái lợp ngói âm dương; bờ mái đắp nổi hình rồng; trước nền có 3 hệ thống bậc cấp bước lên xây bằng đá, mỗi hệ thống 5 bậc. Hai bên miếu chính là hai nhà Tả vu, Hữu vư, đều 5 gian; mái lợp ngói âm dương. Ba công trình này hợp cùng chiếc cổng tam quan hai tầng ở mặt trước (tam quan này cũng lợp ngói âm dương) tạo nên một cấu trúc hình chữ “Khẩu”, một kiểu cấu trúc thường gặp trong kiến trúc truyền thống Huế.
Chung quanh miếu có tường gạch bao bọc cả 4 mặt, ngoài cửa tam quan chính còn mở hai cửa bên tại hai mặt đông, tây. Bên ngoài tam quan lại có một khoảng sân khá rộng, rồi đến một cửa phường xây trụ gạch theo lối tam quan. Đầu 4 trụ đều đắp nổi hình hoa sen. Biển ngạch cửa giữa bên ngoài đề “Đế vương thống kỷ” (nối dòng đế vương các đời) bên trong đề “Cảnh ngưỡng tiền huy” (ngưỡng mộ đức sáng đời xưa). Biển ngạch hai cửa bên trái phải, ngoài đề “Phương huy kim cổ tại”(xưa hay để dấu thơm), “Đạo thống Bắc Nam đồng” (Nam Bắc đồng mối đạo); bên trong đề “Khoáng nghi quang vãng điệp” (Nghi lễ sáng sử sách trước), “Hồng huống điện viêm giao” (phúc lớn định viêm bang. Hai bên cửa phường này gắn liền với một lớp tường thấp xây gạch nối dài qua hai bên, khiến quy mô miếu thêm rộng rãi, khang trang.
Phía Bắc tường miếu, năm Minh Mạng thứ 10 (1829), dựng một tòa nhà 3 gian, gọi là Tể sinh sở, tức nơi giết mổ các con vật trong các dịp tế tự. Tòa nhà này đến năm Thành Thái thứ 14 (1902) còn được trùng tu.
Cũng xin nói thêm là dưới thời Nguyễn, bên trái miếu Lịch Đại còn có một ngôi miếu thờ riêng Lê Thánh Tông, dựng từ năm Gia Long thứ 8 (1809). Đến năm 1924, do miếu bị đổ nát, triều Nguyễn đã cho dời bài vị Lê Thánh Tông qua thờ chung tại miếu Lịch Đại.
Dưới thời Nguyễn, mìếu Lịch Đại Đế Vương thường xuyên được chăm sóc, tu bổ, đặc biệt là vào các năm 1831, 1848, 1902…Tuy nhiên, về cuối triều Nguyễn, do tình hình tài chính eo hẹp, miếu càng ngày càng ít được tu bổ hơn. Đến năm 1914, theo bác sĩ A.Sallet và nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Hòe trong bài khảo cứu Liệt kê các đền miếu và những nơì thờ tự ở Huế, miếu vẫn còn gần như nguyên vẹn, nhưng các văn tự trên cổng tam quan đã bị xóa. Hình ảnh này thể hiện khá rõ nét trên hai bức tranh vẽ bằng bút sắt vẽ của họa sĩ Nguyễn Thứ thực hiện trong thời kỳ này. Khí ấy diện mạo toàn khu miếu cũng như ngôi miếu chính vẫn còn khá nguyên vẹn và rất đẹp. Đáng tiếc là sau khi triều Nguyễn sụp đổ, miếu Lịch Đại Đế Vương không được ai chăm sóc, bảo quản nên bị xuống cấp rất nhanh. Rồi chiến tranh cùng nhiều nguyên nhân khác đã khiến ngôi miếu nổi tiếng trên bị đổ nát và dần dần rơi vào quên lãng. Dân di cư và một số gia đình đã cư lấn chiếm dần khuôn viên khu miếu và biên nơi này thành bình địa!
Có lẽ đã đến lúc chúng ta đặt ra vấn đề phục hồi miếu Lịch Đại Đế Vương.
Còn nhớ, trong dịp tổ chức giỗ tổ Hùng Vương năm 2002, một số người đã nêu ý kiến nên xây dựng một ngôi miếu thờ vua Hùng tại Huế. Có lẽ, họ không biết rằng, tại đây đã từng có một ngôi miếu không chỉ thờ tổ Hùng Vương mà còn thờ tất cả các vị vua tiêu biểu của nước ta qua cac triều đại - miếu Lịch Đại Đế Vương. Đây cũng là ngôi miếu duy nhất thuộc dạng này ở Việt Nam còn khá đầy đủ các bằng chứng và vết tích về sự tồn tại của nó. Vậy thì việc phục hồi ngôi miếu này có lẽ là hết sức cần thiết. Hơn nữa, công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế trong giai đoạn vưa qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đủ để chúng ta có được kinh nghiệm và tài lực trong viêc nghiên cứu, phục hồi ngôi miếu độc đáo này.
Rất mong đây sẽ là một vấn đề được nhiều người quan tâm!
|
Nguồn: Khoa học phổ thông, số 26 (764), 13-19/7/2005.