Ý tưởng quyết định chiến trường
Lên khỏi hầm, tôi ngồi nghỉ hồi lâu trong lán làm việc của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Hương rừng, gió thoảng… Tôi nhớ lại giọng kể của ông lúc trầm lắng, lúc sôi nổi: “ Khi chia tay Bác nhắc: Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh… Tôi gặp một số cán bộ tìm hiểu tình hình. Ai nấy đều tỏ ra hân hoan với chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh. Tôi trình bầy những suy nghĩ của mình, với so sánh lực lượng ta và địch trên chiến trường, không thể huy động toàn bộ sức mạnh của ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong thời gian một vài ngày. Đồng chí Vi Quốc Thanh- Trưởng đoàn cố vấn quân sự của bạn cân nhắc rồi nói: nếu không đánh sớm, nay mai địch tăng thêm quân và củng cố quân sự thì cuối cùng sẽ không còn điều kiện công kích quân địch…
“Tôi vẫn cho rằng đánh nhanh không thể giành thắng lợi, nhưng chưa đủ cơ sở thực tế để bác bỏ phương án của các đồng chí đi trước đã lựa chọn… Trước mỗi trận đánh, tôi thường khuyến khích cán bộ nói hế khó khăn để bàn cách khắc phục… Nhiều đêm thao thức, suy tính, cân nhắc rất nhiều lần vẫn chỉ tìm thấy rất ít yếu tố thắng lợi… Đêm ngày 25 tháng 01 năm 1954 tôi không sao chợp mắt, đầu đau nhức. Đồng chí Thuỳ y sĩ, buộc lên trán tôi một nắm ngải cứu. Ngạc nhiên nhìn nắm ngải cứu trên trái tôi, đồng chí Vi Quốc Thanhân cần hỏi thăm sức khoẻ rồi nói: Trận đánh sắp bắt đầu. Đề nghị Võ Tổngcho biết tình hình lúc này ra sao?
Tôi trình bày với đồng chí ba khó khăn lớn của bộ đội ta:
Thứ nhất: Bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường…
Thứ hai: Trận này tuy ta không có máy bay, xe tăng nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với quy mô lớn lần đầu mà lại chưa qua diễn tập…
Thứ ba: Bộ đội ta từ trước tới nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu. Chưa có kinh nghiệm công kiên ban ngày trên trận địa bằng phẳng…
Rồi tôi kết luận: Nếu đánh là thất bại.
- Vậy nên xử trí thế nào?
- Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm “ đánh chắc tiến chắc”.
Lát sau Đảng uỷ cũng đi tới nhất trí với tôi, tôi kết luận: “Để đảm bảo thắng, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “ đánh nhanh thắng nhanh” sang “ đánh chắc thắng chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháp ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới. Trong ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình… Tôi nghĩ nếu lần đó cứ đánh nhanh, giải quyết nhanh thì cuộc kháng chiến có thể lùi lại mười năm”.
Thật là một bài học sâu sắc về dân chủ nội bộ!
Phải thực giỏi về nghề nghiệp của mình và có kiến thức khoa học liên ngành, không giáo điều, không chịu lệ thuộc vào các quyền uy, không chịu đi theo con đường mòn của sức ỳ tâm lý, thử đúng sai, độc lập suy nghĩ sáng tạo, có đức nhẫn và đức lắng nghe. Võ Nguyên Giáplà con người như vậy. Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanhvà những chuyên gia cùng đi chủ trương đánh nhanh thắng nhanh. Các cán bộ chỉ huy đại đoàn của ta đều thấy là nên đánh ngay khi địch chưa đứng chân vững. Nhưng nghiên cứu tình hình toàn cục, ông lại thấy đánh ngay thì sẽ thất bại, mà phải chuyển hẳn từ phương án đánh nhanh thắng nhanh sang phương án đánh chắc tiến chắc, phải hoãn cuộc tiến công, phải kéo pháo ra, khi mà hầu hết các cỗ pháo đã phải vượt những dốc đèo cao 300, 400, 600 và đã phải trả giá bằng nhiều sinh mạng bộ đội để đưa được vào trận địa dã chiến. Làm thế nào? Ông là thiểu số! Ông kiên nhẫn đợi chờ, đi xuống cơ sở chú ý lắng nghe, để tìm đủ cơ sở thực tế bác bỏ phương án của cố vấn Trung Quốc và các đồng chí đi trước đã lựa chọn. Đức Nhẫn và đức Lắng ngheở thời điểm “ ngàn cân treo sợi tóc” đó mới đáng giá biết bao. Ông nói: “Tôi cảm thấy như cả tháng trời đã trôi qua. Nhưng tính lại từ khi trao nhiệm vụ chiến đầu tới đó, chỉ có mười một ngày”.
Nguồn: T/c Khoa học và Tổ quốc, 8/2004, tr 20, 21








