Xây dựng xã hội dân sự tốt là hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh về “Quyền hành và lực lượng đều nơi dân”*
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tạo dựng cơ sở cho việc hình thành và phát huy sức mạnh của “ xã hội dân sự” gắn liền với “ nhà nước pháp quyền”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nướckhông trùm lên xã hội dân sự, Nhà nước không nuốt mất xã hội dân sự và cũng không nuốt mất đời sống cá nhân. Coi trọng cả cộng đồng và cá nhân, Hồ Chí Minh đã hiểu rõ và phát huy được truyền thống cộng đồnglà đặc điểm khá nổi bật của Việt Nam, của phương Đông đồng thời cũng vận dụng được thành quả về cá nhâncủa phương Tây.
Ở các kiểu loại nhà nước không pháp quyền, mệnh lệnhđược ban ra trực tiếp từ chủ thể nắm giữ quyền lực dưới các hình thức như chiếu chỉ, sắc dụ, sắc lệnh, nghị quyết… thành văn bản hay mệnh lệnh được phát ngôn, đều là nhữngmệnh lệnh tuyệt đối một chiều từ trên xuống,không có sự phản hồi, càng không thể có sự phản biện xã hộidưới bất cứ hình thức nào, hoặc nếu có thì chỉ là hình thức mị dân. Ở đó, quyền lực được tập trung vào độc quyền cá nhân (nhà vua) hay một nhóm người định đoạt mọi vấn đề của đất nước. Đồng thời, sự chuyển giao quyền lực giữa các chủ thể quyền lực là cơ chế nối truyền (gia đình, dòng tộc, các nhóm quyền lực cùng lợi ích), quần chúng nhân dân đứng ngoài tiến trình này.
Với nhà nước pháp quyền, quyền lực là của nhân dân và chỉ ở nhân dân mà thôi,theo cách nói của Hồ Chí Minh thì “ Quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Để là đối tác bình đẳngcủa Nhà nước chứ không phải là cái đuôicủa Nhà nước, xã hội dân sự,theo cách hiểu thông thường, giữ vai trò là đối quyềncủa quyền lực Nhà nước. Thuật ngữ “ đối quyền” có thể làm cho ai đó e ngại, nhưng về thực chất, là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và giám sát các chủ trương và chính sách của Nhà nước mà Nghị quyết của Đại hội X đã chỉ ra. Dân chủ, mở rộng dân chủ, lắng nghe một cách chân thành và nghiêm túc tiếng nói từ bên dưới, tạo điều kiện cho “ dân mở miệng ra” như Bác Hồ đã từng nhắc nhở, mới có thể nhận được những thông tin phản hồi chính xác để điều chỉnh và sửa sai, nhằm hoàn thiện chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch. Vì thế, người lãnh đạo phải khắc phục thói quen chỉ biết độc thoạimà lẩn tránh đối thoại.
… Phải chăng, “ các tổ chức xã hội” sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội chính là các tổ chức thực hiện các liên kết ngang, tạo nên cấu trúc của xã hội dân sựmà chúng ta đang cố gắng hình thành gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền.Cần nhớ rằng, tư duy về Nhà nước pháp quyềnđược xác lập trên mối quan hệ giữa người cầm quyền và người công dân theo nguyên lý “ chỉ huy những người bình đẳng với mình và phục vụ những con người mà mình hoàn toàn bình đẳng với họ”. Không chỉ bình đẳng trước pháp luật mà còn bình đẳng với tư cách công dân với những quyền mà Hiến pháp đã quy định. Các “ tổ chức xã hội” và những thành viên của họ sẽ “ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội” với tư cách ấy và quyền ấy.
Nghị quyết Đại hội X khẳng định: “ Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Tham gia bằng cách nào? Có rất nhiều cách, song, thuận lợi nhất là thông qua các tổ chức xã hộidưới mọi hình thức.
Gần đây, tổ chức “ Liên Minh thế giới vì sự tham gia của công dân” (CIVICUS) đã công bố những số liệu từ một cuộc khảo sát ở Việt Nam: 74% số công dân là thành viên tối thiểu một tổ chức, 62% là thành viên của từ 2 tổ chức, và tính bình quân mỗi công nhân tham gia 2, 3 tổ chức. Trong đó, nhóm hội viên lớn nhất thuộc về các tổ chức quần chúng, đoàn thể phụ nữ, tổ chức phúc lợi xã hội, các tổ chức cộng đồng địa phương, các tổ chức thể thao, vui chơi, giải trí, các tổ chức giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc và các hội nghề nghiệp, hội khoa học và công nghệ.
Sự đánh giá này đúng đến đâu chắc còn cần phải trao đổi kỹ. Tuy nhiên, đánh giá này cũng gợi lên một vấn đề: Nếu biết tổ chức và khai thác tốt thỉ khả năng tham gia của các tổ chức xã hội vào quy trình lập phápsẽ là sự thực hiện một cách thực tế và trực tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Bởi lẽ, trí tuệ và sức mạnh của những con người của mạng lưới các tổ chức xã hội không nằm trong hệ thống các liên kết dọccủa hệ thống chính trị hiện hành là hết sức lớn.
Đương nhiên, trong sự đánh giá nói trên thì còn khá nhiều những tổ chức nằm tronghoặc có mối liên hệvới hệ thống dọc đó, mà Mặt trận Tổ quốc với những thành viên của nó là một ví dụ. Là một tổ chức chính trị hết sức rộng lớn, có bề dày hoạt động cực kỳ phong phú, gắn liền với mọi thắng lợi vẻ vang của dân tộc, cũng có thể nói đó là một trong những nhân tố quyết địnhmọi thắng lợi, nhờ huy động được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên mọi chặng đường cách mạng, liệu MTTQ đã là một tổ chức nằm trong xã hội dân sự theo đúng nghĩa của nó chưa? Cần lưu ý: trong khái niệm “ các tổ chức xã hội” sẽ “ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội” bao gồm các thành viên nào của Mặt trận. Vì theo Điều lệ của Mặt trận: “ MTTQ VN… là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài”.
Vậy, khái niệm “ tổ chức xã hội” chúng ta cần trao đổi để tìm ra cách thức tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội có gồm cả các tổ chức xã hội đã tham gia vào MTTQ VN, và các tổ chức xã hội nằm ngoài Mặt trận không? Nằm ngoài Mặt trận, song lại nằm trong xã hội dân sự! Đây là một vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn lớn cần được nghiên cứu kỹ.
Tham gia vào quy trình lập pháp và phản biện xã hội
Khẳng định quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội X còn ghi rõ: “ Các cấp uỷ Đảng và các cấp chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, và hệ thống chính trị” (tr 43). Đây là một bước mới trên quá trình dân chủ hoá xã hội.
Với chủ trương: “ … đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới…” như Cương lĩnh của Mặt trận đã xác định, Nghị quyết của Đại hội X đòi hỏi: “ Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Vậy thì, các “ đoàn thể nhân dân” trong Nghị quyết có phải là các tổ chức xã hội mà chúng ta cần trao đổi về vai trò của nó trong “ quy trình lập pháp của Quốc hội” hay không? Tiếp đó, tham gia vào “ các quy trình lập pháp của Quốc hội”, công việc ấy có nằm trong nội hàmcủa khái niệm “ phản biện xã hội” hay không? Nếu có, thì nội dung và cách thực hiện như thế nào? Có lẽ đây là những vấn đề phải thật tường minh.
Phản biện cái gì và phản biện cho ai, nhằm mục đích gì? Điều quan trọng là sau khi đã xác định rõ cái logic tất yếu cần phải có “phản biện xã hội”,thì việc nhận thức rõ đối tượng, nội dungvà mục đíchcủa phản biện xã hộimà các tổ chức xã hội nằm trong và nằm ngoài Mặt trận Tổ quốc định đảm nhận sẽ có ý nghĩa lớn đến việc tìm ra phương phápđúng để tiến hành phản biện.
Với đặc điểm của thể chế chính trị chỉ một Đảng cầm quyền, để đảm bảo thực thi tốt vai trò và chức năng lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc cần được tổ chức tốt để thực hiện chức năng phản biện xã hội. Cùng với Mặt trận, phải làm sao để mọi tầng lớp thực hiện quyềnvà trách nhiệmcủa mình về “ phản biện xã hội” qua các tổ chức xã hội chưa tham gia vào MTTQVN để có đóng góp vào quy trình lập pháp của Quốc hội.
Đó không chỉ là thực hiện yêu cầu của dân chủ hoá xã hộimà còn là nhu cầu của việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền và phát huy vai trò của xã hội dân sự. Đó cũng là giải pháp khắc phục bệnh quan liêu, một trọng bệnh của Đảng cầm quyền, nguồn gốc của nhiều thoái hoá biến chất mà chúng ta đã biết. Chính vì thế, cùng với những đòi hỏi trên, để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội làm tốt chức năng phản biện xã hộitheo yêu cầu của Đại hội X, cần khắc phục tính chất “ nhà nước hoá” của Mặt trận cũng như nhiều đoàn thể chính trị, xã hội, kể cả một vài tổ chức xã hội nghề nghiệp đã tham gia vào Mặt trận. Cái gọi là “ nhà nước hoá” đó thể hiện trong mối liên kết dọcvới cơ cấu tổ chức, phương thức điều hành, kể cả kinh phí hoạt động.
“ Nhà nước hoá” đi liền với “ hành chính hoá” đã tước bỏ hoặc làm nghèo nàn đi nội dung xã hộicủa sự tự quảntrong tinh thần tự nguyện, bằng tính đa dạng, cực kỳ phong phú với nhiều chiều cạnh của các tầng lớp, các nhóm xã hội, các cá nhân. Họ có những lợi ích riêng biệt không hoàn toàn đồng nhất với nhau, với những đòi hỏi không ai giống ai, nhưng vì một mục tiêu chung mà cùng liên kết, hợp tác và cạnh tranh với nhau để tạo thành một hợp lựcthúc đẩy sự phát triển. Tính đa dạng và phong phú tạo thành mạng lưới xã hộitrong mối liên kết ngangcủa các tổ chức, tạo nên cấu trúc mạng của xã hội dân sự. Vì thế, phản biện xã hội, với nội dung toàn diện của nó, cần được hình thành một cách năng động, thường xuyên và quyết liệt từ xã hội dân sự.
Điều cần đặc biệt lưu ý là, trong bối cảnh mới của phát triển và hội nhập, yếu tố ý thức hệkhông còn là rào cản của sự đồng thuận xã hội nhằm tạo ra động lực của sự nghiệp phát triển đất nước trong bối cảnh mới của thời đại, với thế và lực mới của dân tộc ta. Nội dung được ghi trong Cương lĩnh của MTTQVN dẫn ra ở trên đã nói rõ điều này. Mà làm như thế chính là học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ sở xã hội của Nhà nước, đó cũng là nền tảng vững chắc của việc xây dựng Xã hội dân sự phù hợp với đặc điểm truyền thống và tâm lý Việt Nam.
Cơ sở xã hội đó là gì? Là dân tộc. Với Hồ Chí Minh, dân tộckhông chỉ là địa bàn ứng dụng của lý luận cách mạng, mà dân tộcchính là chỗ xuất phát, mảnh đất màu mỡ và cội nguồn sáng tạo của lý luận cách mạng đó. Cơ sở xã hội mới của nhà nước ấy rất rộng lớn và không hề thay đổi phạm vi trong quá trình cách mạng.Đó là phạm vi các giai cấp và tầng lớp không thay đổi, chỉ tăng lên về chất lượng để hình thành một tập hợp mới mạnh mẽ hơn, bền chắc hơn của khối đại đoàn kết dân tộc.Trong đó, có thể có rơi rớt người này hoặc người khác, chứ không có chuyện loại bỏ tầng lớp này hoặc tầng lớp khác theo kiểu sử dụng “ bạn đường” có thời hạn, để khi cần thì vứt bỏ. Trong tư tưởng và trong hành động, trong ứng xử với con người, với đồng bào của Hồ Chí Minh tuyệt đối không có chuyện đó.
Với cơ sở xã hội đó, Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công bộc của dân, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Nhà nước ấy không hoạt động đơn độc mà gắn kết với các đoàn thể và các tổ chức xã hội khác. Chính đó là sự ươm mầm cho xã hội dân sựmà chúng ta đang nói đến hôm nay.
Ở những bước đi đầu tiên nhằm đạt nền tảng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyềntrong mối quan hệ với xã hội dân sự,Hồ Chí Minh đã kết hợp được việc phát huy truyền thống cộng đồng,một nét nổi bật trong truyền thống văn hoá Việt Nam và phương Đông với sự vận dụng những thành tựu về giải phóng cá nhâncùng với những thành quả của nền dân chủ phương Tây. Đó là, ngoài nhà nước và thường đấu tranh với nhà nước, nhiều tổ chức chính trị - xã hội nghề - nghiệp có vai trò lớn, trở thành lực lượng thúc đẩy tiến bộ xã hội, như các đảng chính trị, các công đoàn, các hiệp hội, lực lượng của các phương tiện thông tin đại chúng, các nhóm lợi ích, các nhóm gây sức ép… hoạt động của các lực lượng đó tạo thành nền dân chủ phương Tây. Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc một số thành tựu đó để vận dụng sáng tạo vào thực tế đất nước mình.
Hiện đại hoá truyền thống, Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu dân chủ của xã hội phương Tây gắn liền với truyền thống cộng đồng của phương Đông trong việc thúc đẩy việc xây dựng các đoàn thể quần chúng và các lực lượng xã hội khác, nhằm mục đích phát huy tính chủ động và tinh thần tự quản của mỗi người dân tự lo liệu cuộc sống cho mình và cho cộng đồng, chứ không nhất nhất đòi hỏi phải có bàn tay của nhà nước, đồng thời làm rõ mối quan hệ của các tổ chức ấy với Nhà nước.
Từ bài học ấy có thể khẳng định dứt khoát dân ta đủ trí tuệ và nghị lực để vận hành quá trình dân chủ hoá xã hội. Một trong những ghi nhận của quá trình ấy là việc cần xây dựng và hoàn thiện “ xã hội dân sự” để phát huy lên một trình độ mới trí tuệvà nghị lựcấy. Tư tưởng e dè, nghi ngại với xã hội dân sựthực chất là tư tưởng không tin vào dân, xa dân, tệ hơn nữa là chỉ muốn làm “quan phụ mẫu của dân”, kiêng sợ sức mạnh của dân. Đó chính là biến thái của quan điểm “ dân khả sử do, bất khả sử tri” (dân có thể khiến họ noi theo, không thể khiến họ hiểu biết). Vì nếu dân hiểu biết thì khó cưỡi đầu cưỡi cổ. Gọi đúng tên, nỗi sợ đó là biểu hiện sự tha hoá của quyền lực.Để các tổ chức xã hội có thể tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội, phải thanh toán tận gốc quan điểm lạc hậu đó.
Chính ở đây cần đến tính năng động và tự giáccủa mỗi một người dân trong guồng máy hoạt động xã hội rất rộng lớn, đa dạng, cực kỳ phong phú song cũng hết sức phức tạp. Tính năng động và tự giác đó được thể hiện trong vai trò tự quảnnhững công việc mà không cần nhúng tay vào tất cả các hoạt động của xã hội vì vậy được đẩy lên cao. “ Xã hội dân sự” đảm đương sứ mệnh đó. Cần nhớ rằng, với tất cả khuyết tận vốn có, nền dân chủ làng xãcủa ta xưa kia cũng đã nuôi dưỡng được phần nào tính tự quản. Tác giả của “ La commune anammite”, P.Ory, đã từng lưu ý những nhà cai trị thực dân rằng: “ Làng của Việt Nam tự quản lý lấy chính nó. Nhà nước không nên can thiệp vào công việc của làng, trừ phi làng không thực hiện nghĩa vụ của mình là đóng thuế thân, thuế đất, đi phu, đi lính”.
Rồi đây những tổ chức như Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, hội nghề nghiệp, hiệp hội, câu lạc bộ, tổ chức phi chính phủ, các phương tiện thông tin đại chúng, các nhóm lợi ích… sẽ dần dần có vai trò lớn, nhất là khi “ Luật thành lập Hội” được ban hành. Một mạng lưới dày đặc các mối tương tác và trao đổi giữa những cá nhân và cá nhân, cá nhân và cộng đồng được hình thành có tổ chức. Tất cả những hình thức tổ chức đó giúp tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và giám sát các chủ trương và chính sách của Nhà nước, thực hiện trách nhiệm phản biện xã hộiđối với Nhà nước, thực hiện trách nhiệm tham gia vào quy trình lập pháp của “ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” là Quốc hội.
*Trích tham luận của GS Tương Lai trình bày tại Hội thảo “Xã hội dân dự tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội”, được tổ chức vào cuối tháng 9/2007. Nhan đề do Ban Biên tập đặt








