Xã hội dân sự một số nước Đông Á: Đặc điểm, bản chất và tác động
I. MỘT VÀI NÉT TỔNG QUÁT VỀ XHDS
Cho đến thế kỷ XVII, cum từ “civil society”/”sociéte civil” mới xuất hiện trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng trên thực tế, cụm từ này (nguyên bản bằng tiếng Latin “societas civilis”) đã được Cicéro sử dụng từ trước Công nguyên nhằm chỉ một cộng đồng chính trị văn minh đối lại với nhà nước về bản chất. Trong thời cổ đại và trung đại, xã hội con người được tổ chức thành nhà nước, civilis hầu như đồng nhất với khái niệm Nhà nước; civilis được hiểu theo 2 nghĩa: i) đối lập với trật tự tự nhiên, hoang dã là văn minh xã hội có pháp luật, có quy tắc; ii) civilis mang nghĩa công dân gồm những người tham gia trực tiếp vào sinh hoạt dân chủ của thành quốc Athens – cái nôi của nền dân chủ mang tính phổ quát.
Vào thế kỷ XVII, các nhà tư tưởng lớn như Thomas Hobbes (1588-1679), Samuel Pufendorf (1632-1694) và John Locke (1632-1704) đã đưa ra các luận điểm về “luật của tự nhiên”, “civil” là một kiến tạo tự nguyện của các cá nhân nhằm đảm bảo trật tự và an lạc, và “khế ước xã hội” (social contract) như là các nền móng của XHDS. Vào thế kỷ XVIII, các triết gia như Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) đã tách biệt nhà nước và XHDS với những chức năng khác nhau; Charles Montesquieu (1748) và Adam Ferguson (1767) đã gắn XHDS với một xã hội “thương mại” hoặc một xã hội “văn minh”, nơi các cá nhân được hưởng các quyền tự do, độc lập và bằng hữu đối lập với các cộng đồng người “mông muội”, “hoang sơ”. Vào thế kỷ XIX, Georg W.F. Hegel, Karl Marx và Alexis de Tocqueville tiếp tục phát triển thêm quan niệm XHDS và cho rằng cần phải phân biệt XHDS với gia đình và nhà nước. Theo Hegel, XHDS là “một thành tựu của thế giới hiện đại – là lãnh địa của sự dung hòa, nơi mà những tư tưởng khác biệt, nơi mà mỗi tài năng cá nhân và chính cá nhân trở thành con người công chúng thông qua tư cách thành viên của mình trong một thể chế có khả năng kết nối từng phần với tổng thể hoàn cầu”. Theo nhìn nhận của Marx và Engels, XHDS là “sàn diễn của lịch sử” (theatre of all history). Trong khi với Rousseau, sự tương phản giữa nhà nước chuyên chế với XHDS đã trở thành tâm điểm của các cuộc thảo luận chính trị về sau, bao gồm cả cuộc thảo luận về XHDS nổi tiếng của Tocqueville.
Đến thế kỷ XX, vào những năm giữa 2 cuộc Đại chiến Thế giới, XHDS đã bị xao nhãng, hay nói cụ thể hơn, chỉ còn là đối tượng qua tâm của các nhà sử học. Trong vòng nửa đầu thế kỷ XX, khoa học xã hội (đặc biệt kinh tế học) ở phương Tây đã dồn mối quan tâm vào: thị trường và nhà nước nhiều đến mức tựa như con người sống trong một thế giới chỉ có hai khu vực đó. Tuy nhiên, từ sau Đại chiến Thế giới thứ II, XHDS nổi lên như một lực lượng tích cực tham gia vào quá trình củng cố nhà nước pháp quyền và bổ khuyết cho kinh tế thị trường ở các nước công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó khẳng định quyền tham gia, công dân trên hầu hết các mảng sinh hoạt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tạo dựng quang cảnh XHDS sôi động nhưng an lành, bền vững. Cấu trúc kiềng 3 chân – nhà nước, thị trường và XHDS – đóng vai trò thực sự quan trọng cho sự phát triển của chế độ xã hội ở các quốc gia công nghiệp.
Từ cuối thập kỷ 1980, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu đã khiến cho không gian dân sự mở rộng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức dân sự hoạt động.
Cũng vào thập kỷ 1980, các hoạt động dân sự được dấy lên ở nhiều nước Đông Á đã khiến cho những tranh cãi về khái niệm và vị thế của XHDS cho đến hiện nay chưa có điểm dừng. Với độ mở khác nhau giữa các nền kinh tế ở khu vực này, sự phát triển XHDS cũng có sự khác nhau: trong khi ở Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, XHDS đã đóng góp một phần rất lớn vào tiến trình xây dựng kinh tế - xã hội tích cực, thì ở một số nước Đông Á khác, XHDS chưa có những đóng góp đáng kể. Dù thế nào, trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập quốc tế hiện nay, “xã hội dân cự” vẫn được tái khẳng định là một bộ phận nằm ngoài nhà nước, thị trường và gia đình, nó có vai trò bổ sung những hoạt động mà nhà nước không thể hoặc không cần bao quát, thúc đẩy dân chủ, kết nối người dân, tạo ra một không gian rộng lớn cho quyền tham gia đa dạng của công dân trong các công việc xã hội.
Trên nền tảng chung kể trên, nhận thức về XHDS ở 5 quốc gia Đông Á – Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc – được biểu hiện qua những nét cơ bản như sau:
- Đông Á là một trong những khu vực chứa đựng sự đa dạng văn hóa nhất trên thế giới. Văn hóa dân tộc và chủng tộc, văn hóa kinh tế xã hội, văn hóa tôn giáo, văn hóa chính trị… tất cả đều vừa là khởi nguồn cho sự phát triển hoặc cản trở sự phát triển của XHDS. Tuy nhiên, nhận thức về XHDS dù được thể hiện dưới góc độ nào đều tương đối thống nhất ở hầu hết các quốc gia: đó là lĩnh vực sinh hoạt xã hội mở, tự nguyện, được gắn kết bởi trật từ pháp luật hay nguyên tắc được cùng chia sẻ, là lĩnh vực ngoài nhà nước, thị trường và gia đình.
- Nhận thức và khái niệm về XHDS, về cơ bản, ở Đông Á không khác so với phương Tây. Những chia sẻ nhận thức về XHDS giữa Đông và Tây (gọi tắt của Đông Á và phương Tây) là kết quả của quá trình xâm nhập kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Nền tảng kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và XHDS tất yếu là kiềng 3 chân để bảo toàn xã hội văn minh và ngày càng thịnh vượng. Đối với những quốc gia Đông Á theo đuổi mô hình kinh tế thị trường, lựa chọn chế độ chính trị đa nguyên với thể chế chính trị tam quyền phân lập, nhiều giá trị do XHDS Đông Á mang lại đã đồng điệu với giá trị XHDS phương Tây. Trường hợp Hàn Quốc hay Indonesia là những ví dụ điển hình về coi trọng vai trò của XHDS.
- XHDS ở Đông Á gắn liền với nhiều giá trị văn hóa, tôn giáo và đạo đức; ở một vài nước, màu sắc tôn giáo thể hiện rõ trong tôn chỉ hoạt động dân sự của các nhóm xã hội. Hạt nhân cốt lõi tế bào của XHDS ở hầu hết các quốc gia Đông Á được cụ thể hóa là các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các nhóm, hội, đoàn thể quần chúng… đều chia sẻ những giá trị do XHDS mang lại cho cộng đồng và chia sẻ những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức dân sự: tự nguyện, tự chủ, tự tổ chức và tôn trọng luật pháp sở tại.
- Gắn liền với ý niệm về dân chủ và công bằng, trong nhận thức XHDS, hầu hết các nhóm, tổ chức hoạt động dân sự ở Đông Á đều thể hiện vai trò cộng hưởng tác động xã hội của họ với nhà nước. XHDS ở mỗi quốc gia có thể mang bản sắc riêng như ôn hòa ở Thái Lan, gay gắt quyết liệt ở Hàn Quốc, hay mang nhiều màu sắc tín ngưỡng như ở Malaysia và Indonesia, hay mới chỉ “ló dạng” song rất “tích cực” như ở Trung Quốc...nhưng sau cùng, tất cả đều phản ánh nguyện vọng vì quyền sống tự do, dân chủ, công bằng và bác ái của con người. Tựu chung lại, XHDS Đông Á luôn đồng hành với nhà nước và thị trường trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Ở Đông Á, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập, cấu trúc xã hội mở đang làm thay đổi nhận thức của cả người dân và chính quyền về vai trò của XHDS đối với tiến trình phát triển.
II. XHDS ĐÔNG Á – ĐẶC ĐIỂM VÀ BẢN CHẤT
XHDS ở 5 quốc gia Đông Á trong khoảng 50 năm qua được đặc trưng bởi ba thời kỳ phát triển: thời kỳ dựng nước, thời kỳ tăng trưởng kinh tế “thần kỳ” và thời kỳ “dân chủ hóa”.
- Thời kỳ dựng nước được đánh dấu bởi quá trình “củng cố độc lập dân tộc” trong suốt thập kỷ 1950 và 1960. Vào thời kỳ này, chủ nghĩa dân tộc và chủ quyền quốc gia luôn là những chủ đề nhạy cảm. Theo đó, nhiều phong trào nhân dân rất gần với tiêu chí của XHDS trỗi dậy. Các chính phủ Đông Á xây dựng hệ thống thể chế nhà nước vững mạnh và có đủ năng lực quản lý kinh tế - xã hội, chính phủ là lực lượng chủ đạo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, còn các tổ chức phi chính phủ chỉ là các nhóm của tầng lớp thượng lưu. Nhìn chung, XHDS ở Đông Á tương đối yếu hơn so với hệ thống nhà nước phát triển theo hướng tập quyền.
- Thời kỳ “tăng trưởng kinh tế thần kỳ” thập niên 1970 – 1980 và đầu thập niên 1990 là giai đoạn thịnh hành của chủ nghĩa độc đoán phát triển. Một mặt, chủ nghĩa này mang lại thành quả kinh tế ấn tượng, nhưng mặt khác, quyền lực chính trị tập trung, không chia sẻ, tất yếu phải đương đầu với làn sóng đòi dân chủ hình thành từ XHDS. Một phần các hoạt động dân sự đã bị cách ly và vô hiệu hóa, tuy nhiên, những giá trị mà hoạt động dân sự đem lại vẫn hiện hữu ở nhiều nước Đông Á.
- Thời kỳ dân chủ hóa là giai đoạn nền dân chủ được xác lập mạnh mẽ, quá trình dân chủ hóa chính trị đã tạo điều kiện cho XHDS đạt được nhiều tiến bộ. Xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư, quá trình tư nhân hóa, điều tiết chi tiêu chính phủ và sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu cùng với các tiếng nói đòi dân chủ hóa, đòi tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, tất cả tạo thành áp lực cải cách dân chủ ở Đông Á. Các chính phủ phải đối mặt với đòi hỏi hình thức quản trị mới: Chia sẻ quyền hoạch định chính sách thông qua tham vấn các định chế kinh tế quốc tế và các tổ chức NGOs, phi lợi nhuận và tự nguyện của XHDS… Kể từ đó, quan hệ nhà nước và XHDS đã có biến chuyển theo chiều hướng cộng tác hơn là đối đầu tại một số nước Đông Á. Tuy nhiên, không phải mọi thành tựu phát triển kinh tế vượt trội mặc nhiên mang lại nền dân chủ thực sự cho một vài quốc gia. Thời kỳ này, quang cảnh XHDS Đông Á tồn tại mâu thuẫn về mọi chiều cạnh: cấu trúc, môi trường, giá trị và tác động. Nhìn tổng quát, XHDS hoạt động dân sự trên 4 lĩnh vực: i) cung cấp các dịnh vụ phát triển; ii) tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức; iii) khuyến nghị và vận động; iv) thúc đẩy tiến bộ xã hội.
1. Đặc điểm
- Không có mô hình chung cho XHDS Đông Á. Cho đến nay, thế giới đưa ra 3 cách tiếp cận chủ yếu trong mối quan hệ tay ba nhà nước, kinh tế thị trường và XHDS: i) Mô hình tân tự do (neo-libral model), trong đó, xã hội được chia thành những phần và khu vực riêng biệt và XHDS là một phần trong 4 phần, gồm: nhà nước, thị trường, xã hội chính trị và các hiệp hội (XHDS). Các hiệp hội hoạt động độc lập trên cơ sở phi lợi nhuận, mang lại quyền dân chủ cho người dân và thể hiện sự cọ xát, xung đột với nhà nước. 4 phần tồn tại trong tổng thể xã hội luôn có quan hệ tương tác với nhau; ii) Mô hình xã hội tốt lành (good society model). Lập luận của mô hình này tập trung vào quan niệm “dân sự - tốt lành”, với mục tiêu kêu gọi và thực thi hợp tác giữa nhiều khu vực, nhóm dân sự, nhóm tôn giáo khác nhau cùng phấn đấu cho mục đích chung của cộng đồng; iii) Mô hình hậu hiện đại (post modern model). Dựa trên nguyên tắc đối thoại dân chủ, mô hình khẳng định quyền công dân, quyền chủ động tham dự của người dân vào hoạt động tạo ra hàng hóa chung phục vụ cộng đồng và không nhất thiết trông đợi vào nhà nước. Những người theo mô hình này cho rằng, tư tưởng tốt nhất sẽ thắng thế, và để hiện thực hóa các tư tưởng tốt nhất đó, cần có thời gian vận động và xây dựng mạng lưới toàn cầu. Mô hình này đề cao nguyên tắc “đối thoại bình đẳng và XHDS là đối tác với nhà nước” và sử dụng triệt để nguyên lý cơ bản xây dựng quyền lực mềm của mỗi chủ thể trong xã hội. Tương ứng 3 mô hình có 3 mô thức tương tác khác nhau trong xã hội.
Mô thức 1 | Mô thức 2 | Mô thức 3 |
Chính phủ được đề cao, được cho là có đủ năng lực và kiến thức để đáp ứng nhu cầu và mong muốn của toàn xã hội | Kinh tế thị trường được coi là cung ứng hàng hóa và dịch vụ hiệu quả nhất cho xã hội | XHDS hài hòa với nhà nước và thị trường |
- Chính phủ lớn - Thị trường nhỏ - XHDS nhỏ | - Thị trường lớn - Nhà nước nhỏ - XHDS nhỏ | Thị trường=nhà nước= XHDS. Ba chủ thể cấu thành ngang nhau về quyền, không chủ thể nào lấn át, tạo ra bề mặt phát triển cân đối. |
Cả xã hội chịu ảnh hưởng bởi những thất bại của chính phủ trong cung ứng dịch vụ cho xã hội | Thất bại của thị trường: phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội không được bảo đảm | Khắc phục những thất bại của thị trường và nhà nước. Cân bằng lợi ích các bên, bổ sung những thiếu khuyết của nhà nước và thị trường |
Đối chiếu vào thực tiễn XHDS Đông Á chúng ta thấy: Trung Quốc theo mô thức nhà nước lớn, bao trùm toàn xã hội, trong khi Hàn Quốc đã trải qua thời gian nhà nước bao trùm và từ hơn một thập kỷ nay đã dần dần chuyển sang mô thức 3. Cũng gần giống Hàn Quốc, Malaysia đang hướng đến mô thức cân bằng và hài hòa giữa nhà nước và XHDS. Indonesia đang thúc đẩy cải cách dân chủ với sự tham gia tích cực của nhiều tổ chức dân sự vào những lĩnh vực mà chính phủ không thể bao quát. Lý do của các chiều hướng này bắt nguồn từ sự khác biệt về văn hóa phát triển và thể chế chính trị.
-Sự đa dạng về nhu cầu – những nhân tố thúc đẩy hình thành các hoạt động dân sự ngoài nhà nước và thị trường. Động lực phát triển trong mỗi giai đoạn khác nhau và đặc thù cấu trúc xã hội Đông Á khác nhau khiến cho hoạt động dân sự trải rộng trên khắp các lĩnh vực, những hoạt động không chỉ xen vào kinh tế phát triển, vào quản lý xã hội vốn là nhiệm vụ của nhà nước mà còn diễn ra trên những lĩnh vực mà nhà nước và thị trường không thể xâm nhập. Tựu trung, các hoạt động dân sự đều thỏa mãn các nhu cầu có thực, can dự vào hàng loạt dịch vụ công và góp phần phát triển kinh tế như: hướng dẫn nông dân phương pháp canh tác mới, mang lại năng suất cao hơn và phù hợp với chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế do các NGOs Hồng Koong và Đài Loan thực hiện ở Trung Quốc đại lục; các NGOs quốc tế thông qua hội nông dân Campuchia đưa tín dụng nhỏ về nông thôn; các NGOs Việt Nam đã sử dụng nguồn tài trợ quốc tế đẩy mạnh hoạt động tư vấn và xây dựng thói quen sinh hoạt văn minh của người dân nghèo ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa vì mục tiêu sức khỏe cộng đồng; các NGOs của Thái Lan tham gia vào công cuộc bảo vệ rừng khỏi bị tàn phá đi kèm với nâng cao nhận thức người dân về bảo vệ rừng và khai thác rừng một cách bền vững, phong trào nhân dân tham gia vào hoạt động dân chủ hóa, nâng cao nhận thức của người dân về luật pháp và biết tự bảo vệ mình trước những rủi ro trên cơ sở hiểu biết pháp luật, tham gia vào hoạt động chống nạn buôn bán người, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em ở Malaysia, hay ở Trung Quốc… Đó là những mảng hoạt động hiện hữu mà XHDS mang lại cho cộng đồng. Có thể khẳng định, trong nền kinh tế thị trường đã và đang hoàn thiện, nhu cầu phong phú của người dân cũng như các tổ chức ngoài nhà nước và thị trường thực sự thúc đẩy XHDS phát triển ở Đông Á.
- XHDS Đông Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhân tố công nghệ hiện đại biểu tượng của nền kinh tế tri thức. Các phương tiện truyền thông: internet, mạng viễn thông, cáp quang, truyền hình cáp, đài phát thanh, điện thoại di động… đã phát huy vai trò truyền bá kiến thức, làm thay đổi nhận thức cũng như tập hợp lực lượng cho các tổ chức dân sự ở hầu hết các quốc gia. Hệ thống thông tin liên lạc hiện đại đang chắp nối không chỉ người dân trong quốc gia mà kết nối các dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới thành một tập hợp xã hội liên thông cao, trong đó, internet và các mạng xã hội, tiếng nói của công dân đang có nhiều tác động to lớn đến hoạt động dân sự. Việc tập hợp lực lượng dan chủ thông qua mạng truyền thông và mạng xã hội dựa trên thành tựu công nghệ cao đang là trào lưu khó có thể cưỡng lại ở Đông Á. Với sự bùng nổ thông tin, XHDS Đông Á đang thụ hưởng những lợi ích từ truyền thông hiện đại và nó quay lại đóng góp tốt cho đời sống xã hội.
- Sự đóng góp hiển hiện của các dòng tôn giáo chính thống đã tạo nên màu sắc tín ngưỡng phong phú của XHDS Đông Á. Là khu vực hội tụ nhiều dòng tôn giáo khác nhau, XHDS Đông Á chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi giáo lý đạo Phật, đạo Hồi, đạo Cơ đốc và cả những triết lý sống như Khổng giáo. Chính những giáo lý này làm nền tảng chủ đạo cho hoạt động dân sự ở Đông Á và làm nên màu sắc đa dạng riêng biệt của văn hóa ứng xử Á châu. Tôn giáo đóng vai trò đầu lọc đạo đức xã hội, điều chỉnh hành vi công dân mà thiếu nó, tính lành mạnh của xã hội bị lu mờ hay triệt thoái. XHDS Đông Á thể hiện rõ điều này.
- XHDS Đông Á mang sắc thái của nền tảng dân chủ chưa hoàn toàn bền vững. Nền dân chủ “mong manh” hay nói khác đi, nền dân chủ chưa bén rễ vững vàng ở Đông Á khiến cho hoạt động dân sự trên một số lĩnh vực kèm hiệu quả và không toàn diện. Lý do để cắt nghĩa dễ nhận thấy là: i) Xung đột văn hóa Đông Tây; ii) Nền chính trị chuyên chế mang màu sắc quân chủ phong kiến bám rễ rất sâu vào nhiều xã hội Đông Á. Hai lý do này một mặt củng cố sự “ổn định” xã hội trong một thời kỳ nhất định, mặt khác hạn chế vai trò tích cực của XHDS trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà hậu quả của nó chưa thể tính hết.
- Sự khác biệt về môi trường pháp lý cho hoạt động dân sự đang tạo ra quang cảnh XHDS khác nhau giữa các nước trong khu vực. Ở Đông Á tồn tại các cấp độ tự do được quy định bởi pháp luật đối với XHDS. Quy định pháp luật càng tự do, hoạt động dân sự càng được cải thiện và đóng góp tốt hơn cho đất nước. Hình ảnh về dân chủ ở Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan và Malaysia cho thấy môi trường pháp lý quyết định quy mô tác động và khối lượng giá trị do XHDS mang lại.
2. Bản chất
Những giá trị mà XHDS mang lại phán ánh bản chất tích cực của nó đối với việc xây dựng và phát triển xã hội lành mạnh, trong đó, dân chủ, minh bạch, khoan dung, phi bạo lực, bình đẳng giới, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường… là những giá trị không thể phủ nhận.
- Dân chủ hóa chính trị. Lý thuyết khoa học chính trị hàng đầu trong lịch sử đã ghi nhận một thực tế có mối liên hệ không thể tránh được giữa các hiệp hội tự nguyện và dân chủ. Hoạt động hiệp hội tạo nền móng cho quá trình dân chủ hóa, thúc đẩy nhận thức về dân chủ thực chất và giá trị mà nền dân chủ mang lại cho dân tộc. Dưới các thể chế dân chủ, giới tinh hoa có vai trò khởi xướng các giá trị dân chủ, tuyên truyền giá trị dân chủ, sau đó tác động đến đông đảo quần chúng thông qua sự tập hợp thống nhất của những nhóm tinh hoa nhất. Đó là kênh dẫn giá trị dân chủ đến cải cách xã hội căn bản. Trong ba thập kỷ 1960, 1970 và 1980 của thế kỷ XX, “chủ nghĩa độc đoán phát triển” đã thịnh hành ở nhiều nước Đông Á. Quản lý nhà nước tập trung trong tay nhóm lãnh đạo theo tư tưởng Khổng giáo một mặt, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước với những kết quả kinh tế vĩ mô gây ấn tượng. Nhưng mặt khác, về phương diện chính trị và xã hội, thời kỳ “độc đoán phát triển” đã hạn chế quyền tự do báo chí, hội họp, quyền phản biện xã hội… Tất cả khiến cho XHDS Đông Á được nhìn nhận là kém bền vững và ảnh hưởng lan tỏa không cao bằng XHDS phương Tây. Những giá trị châu Á ở trong khu vực cổ vũ cho nền “dân chủ kiểu châu Á” hay “dân chủ Khổng giáo” mang nhiều đặc điểm “đối lập” với nền “dân chủ phương Tây”. Cái gọi là “vùng không quan tâm” đối với XHDS Đông Á rất khác với nhận thức về XHDS phương Tây. Thậm chí ở một vài nơi, quyền “sở hữu thể chế chính trị” không hoàn toàn thuộc về người dân. Nhiều quyền hiến định của người dân được cụ thể hóa thông qua bầu cử tự do định kỳ không được thực thi phổ biến, không khí sinh hoạt chính trị - xã hội chưa thật cởi mở ở nhiều nước Đông Á. Tuy nhiên, quá trình dân chủ hóa tại một số nước trong vùng bắt đầu từ những năm 1990, đặc biệt tại Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia và Philippines, trước hết được dẫn đầu bởi giới tinh hoa, tạo ra nhiều chuyển biến chính trị - xã hội tích cực. Trong tiến trình này, không thể không kể đến vai trò của các tổ chức dân sự vốn được coi như sức mạnh chính trị của quần chúng đòi cải cách, tự do và trao quyền công dân, tôn trọng nhân quyền. XHDS góp một phần quan trọng vào cải cách thể chế ở nhiều nước Đông Á.
- Xóa đói giảm nghèo mà các tổ chức dân sự tham gia đã mang lại giá trị kinh tế - xã hội, với nhiều hàm ý nhân đạo và tính nhân văn đối với cộng đồng. XHDS trong nhiều trường hợp đã cung cấp dịch vụ phát triển hiệu quả hơn nhà nước. Do tính chất linh hoạt, sáng tạo và không quan liêu, các NGOs đã thể hiện vai trò cung cấp hàng loạt dịch vụ như y tế cộng đồng, nâng cao kiến thức quản lý nông nghiệp, bảo vệ làng nghề truyền thống, cung cấp nước sạch, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, giáo dục… Những kết quả này đã được ghi nhận ở tất cả 5 nước kể trên.
- Bảo vệ môi trường: Một trong những giá trị nổi bật của XHDS là tham gia hoạt động môi trường vì lợi ích của cộng đồng. Nhiều hoạt động liên quan đến môi trường và đa dạng sinh thái được các NGOs ở nhiều nước Đông Á thực hiện rất thành công, các tổ chức này khẳng định vai trò của XHDS trong lĩnh vực này.
III. XHDS ĐÔNG Á – NHỮNG TÁC ĐỘNG
1.Tác động đến chính sách công
Việc các tổ chức dân sự tham gia vào xây dựng và giám sát chính sách công thể hiện quan hệ giữa XHDS với nhà nước, mà mục tiêu là làm cho chính sách phù hợp với nguyện ước của dân, đáp ứng đòi hỏi thực tế. Tác động đến chính sách công và quản trị công của hoạt động dân sự được nhìn nhận từ góc độ hiệu quả của quản trị nhà nước. Trong mối quan hệ này, các XHDS Đông Á thể hiện trạng thái quan hệ với 5 dạng thức như sau: i) XHDS cân bằng với nhà nước; ii) XHDS và nhà nước cùng tồn tại và cùng lớn mạnh; iii) XHDS tham gia vào nhà nước; iv) XHDS và nhà nước hợp tác bổ sung cho nhau; và v) XHDS đối kháng với nhà nước. Mức độ thành công của mối quan hệ giữa 2 chủ thể này tùy thuộc mỗi quốc gia lựa chọn dạng thức nào và có phù hợp với điều kiện thực tế hay không. Ví dụ, ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia, XHDS tham gia xây dựng chính sách công theo nhiều cách như trực tiếp hoạch định, trưng cầu dân ý, đóng góp ý tưởng, phản biện chính sách, trong đó báo chí truyền thông giữ vị trí quan trọng trong chuyển tải thông tin hai bên cũng như thể hiện quan điểm của chính họ trước các chính sách nhà nước… Tất cả những hoạt động này duy trì quan hệ tương tác giữa nhà nước và XHDS, đồng thời xây dựng không khí dân chủ, khuyến khích văn hóa tham gia và báo hiệu triển vọng tích cực của XHDS ở những quốc gia này.
2. Trách nhiệm giải trình – vai trò duy trì của các tổ chức dân sự
Đây là một quy trình công khai chéo giữa nhà nước, thị trường và XHDS. Nó là tập hợp nhận trách nhiệm về hành động, chủ động đưa ra một cơ chế mà qua đó, tính minh bạch của mọi chủ thể đều được theo dõi, đánh giá, phán xét. Đối với loại dịch vụ và chỉ chính phủ mới đáp ứng được, người dân có quyền yêu cầu chính phủ phải có trách nhiệm cung cấp những dịch vụ này một cách hiệu quả nhất. Như vậy, họ phải có cơ hội được lên tiếng về chất lượng của các dịch vụ công. Duy trì trách nhiệm giải trình không chỉ là đòi hỏi của XHDS đối với nhà nước, mà còn đối với thị trường – nơi mà doanh nghiệp là đối tượng giám sát của cả người dân và tổ chức dân sự. Một trong những điểm cốt lõi của việc duy trì trách nhiệm giải trình là chống tham nhũng trong cả khu vực nhà nước và doanh nghiệp. Sau cùng, trách nhiệm giải trình còn hướng đến đối tượng là chính các tổ chức xã hội, giám sát việc sử dụng tài chính của bên tài trợ. Trách nhiệm giải trình là đòi hỏi đối với cả ba thể chế, cùng kiểm tra giám sát để cùng tăng hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội toàn diện, mỗi bên vừa là chủ thể đồng thời là khách thể. Trách nhiệm giải trình chính là thước đo tính minh bạch, sự công tâm, sự tự nguyện chấp thuận công bằng, thiện chí và là thước đo đạo đức đối với tất cả các chủ thể, trước hết và trọng tâm là nhà nước và thị trường.
XHDS Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia đã cùng chính phủ tham gia vào công cuộc cải cách, minh bạch hóa và chống tham nhũng. Những thành tựu của công cuộc này thực sự đang là động lực cho những cải cách chính trị sâu rộng hơn ở cả 3 nước – những quốc gia tương đối điển hình cho hoạt động giải trình của XHDS. Ngoài ra, thực hiện trách nhiệm giải trình của các tổ chức dân sự ở Philippines cũng là dẫn chứng đáng quan tâm.
3. Đáp ứng nhu câu và lợi ích xã hội
XHDS Đông Á chia sẻ những giá trị kinh tế, chính trị và xã hội cơ bản như hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường, chăm sóc cộng đồng (chăm sóc sức khỏe, tư vấn y tế, pháp lý), trợ giúp thiên tai, bảo tồn cân bằng sinh thái, làng nghề truyền thống… Chính những lĩnh vực như thế tạo điểm tương đồng để kết nối tổ chức dân sự địa phương với các tổ chức dân sự quốc tế.
Các dịch vụ xã hội và phát triển xã hội như bảo tồn di sản văn hóa, nghệ thuật thúc đẩy giáo dục, đấu tranh nghiệp đoàn, bảo trợ nghề nghiệp, trợ giúp người tàn tật, tạo cơ hội tiếp cận xã hội cho nhóm người dễ bị tổn thương… được nhà nước xem như những vùng hoạt động “không quan tâm”. Vì vậy, không chỉ ở 5 nước Đông Á kể trên mà hầu như ở các quốc gia Đông Á còn lại, mảng hoạt động này đều được duy trì phổ biến. Nếu có khác nhau giữa các quốc gia chỉ là ở mức độ quản trị các dự án liên quan đến các hoạt động tương tự, hay kỹ năng tổ chức các dự án, tính chuyên nghiệp của các tổ chức thực thi dự án. Điều dễ nhận thấy là giá trị xã hội do các XHDS mang lại cho cộng đồng cơ bản mang tính tích cực.
IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA XHDS ĐÔNG Á
Tương lai của XHDS Đông Á tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt chi phối là xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa; xu thế tương đồng hóa và chống tương đồng hóa. i) Toàn cầu hóa kinh tế và toàn cầu hóa những giá trị văn hóa, nhân văn chung nhất là nền tảng cho một xã hội dông dân toàn cầu trong tương lai. Quá trình này buộc tất cả các quốc gia đã tham dự phải tự thích ứng, tự tìm ra cho mình một chiến lược phát triển vượt qua thách thức và hạn chế rủi ro nhiều nhất có thể để tự khẳng định vị trí của mỗi dân tộc trên bản đồ thế giới. Đông Á không nằm ngoài lộ trình này và tất nhiên những chiến lược mà mỗi quốc gia trong vùng lựa chọn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của XHDS ở chính nước họ. ii) Tương đồng hóa các giá trị phương Tây và chống tương đồng hóa thể hiện ở những xung đột văn hóa Đông Tây ở ngay trong khu vực. Tư tưởng dân chủ phương Tây chưa hoàn toàn được chia sẻ ở phương Đông, cách hiểu về quyền con người ở phương Đông khác với ở phương Tây, giá trị văn minh phương Tây xung đột với giá trị văn minh truyền thống Hồi giáo và Khổng giáo trong mối quan hệ Đông – Tây. Trong quá trình giao thoa toàn cầu, quan hệ Đông – Tây đã và đang thử thách những giá trị văn hóa cũng như những giá trị chính trị và tôn giáo của riêng họ. Cuộc xung đột cơ bản giữa Mỹ và phương Tây với các quốc gia Hồi giáo (đặc biệt là Hồi giáo cực đoan) hoặc cuộc cạnh tranh kinh tế, giành quyền lực bao trùm đối với phần còn lại của thế giới, giữa một bên gồm Mỹ - EU – Nhật Bản và bên kia là Trung Quốc đang tác động không nhỏ đến tương lai của XHDS Đông Á.
Vì vậy, xác định tương lai của XHDS Đông Á là vấn đề hết sức phức tạp, mang cả các yếu tố công thức cũng như phi công thức. Dù sao, trước việc nhận thức xã hội và chính trị của người dân đang được nâng cao không ngừng, XHDS Đông Á sẽ tiếp tục phát triển và hướng đến những tiêu chí cơ bản. Các giá trị mà quá trình này đem lại cho các quốc gia Đông Á không giống nhau, tốc độ dân chủ hóa tiếp tục không đồng đều giữa các quốc gia trong khu vực.
Theo xu thế chung này, viễn cảnh XHDS Đông Á có thể phát triển theo những chiều hướng sau:
Thứ nhất, XHDS Đông Á trong các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau sẽ tiếp tục phân hóa về mô hình.
Thứ hai, tác động của XHDS đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở mỗi nước tùy thuộc vào mức độ dân chủ hóa. Một XHDS dân chủ và cầu thị trong lòng Đông Á có thể khó hình thành nếu những xung đột giữa Đông và Tây vẫn là hiện hữu.
Thứ ba, quản trị các tổ chức dân sự ở các quốc gia và mạng lưới khu vực vẫn duy trì 3 mô hình: i) mô hình quản trị công ty (corporate governance model), trong đó, với những nguyên tác tư quản theo cách thức độc lập, tự nguyện như tất cả các nhân viên công ty tự nguyện vào làm việc, tự giải trình minh bạch để tổ chức có thể tiếp tục hoạt động; ii) mô hình quản trị động lực chính yếu (dominant driving force model), theo đó, quyền điều hành và quyết định chủ yếu thuộc về người sáng lập ra tổ chức, mô hình này đối lập với mô hình quản trị công ty; iii) mô hình quản trị dân chủ (democratically governed model) chú trọng đến sự tham gia đồng đều của các thành viên, điều hành một cách dân chủ. Mỗi mô hình quản trị vừa nêu đều có những lợi thế riêng, nhưng hiện nay, phổ biến là mô hình thứ nhất và thứ hai đối với các NGOs, còn mô hình thứ ba tập trung nhiều hơn vào các tổ chức mang tính chính trị, phong trào đòi dân chủ và nhân quyền. Khi chính phủ trở nên khắt khe với một số tổ chức dân sự nhất định, các tổ chức đó sẽ chấm dứt hoạt động theo mô hình cũ và chuyển sang mô hình khác, thậm chí kiểu như công ty.
Thứ tư, khả năng hội tụ hay xích lại gần nhau của XHDS Đông Á là hiển hiện, nhưng không dễ dàng. Để có thể hội tụ và liên kết với nhau, các phong trào dân sự hay các NGOs ở Đông Á cần các điều kiện: i) chia sẻ tư tưởng, quan niệm về tự do và nhân quyền; ii) chia sẻ phương thức liên kết các tổ chức dân sự; iii) cần có đủ điều kiện tài chính; và sau cùng iv) các nhà lãnh đạo quốc gia đặt lợi ích dân tộc lên trên hết để tạo điều kiện cho việc liên kết dân sự được tính hành thuận lợi. Lợi thế kết nối của thời đại công nghệ thông tin thực sự cho phép người dân Đông Á có thể duy trì thông tin liên lạc với nhau và trợ giúp cần thiết, vấn đề còn lại thuộc nỗ lực của các nhà nước Đông Á.
Thứ năm, hoạt động dân sự là bộ phận bất biến trong đời sống xã hội, sức nặng của nó tăng tỷ lệ thuận với trình độ phát triển nói chung và trình độ dân trí nói riêng.








