Vùng Sử thi Tây Nguyên
...Đó là công lao của một tập thể những nhà khoa học đã bỏ ra rất nhiều thời gian và trí óc để cho ra đời những công trình sưu tầm - tìm hiểu sử thi mang dấu ấn thời đại trong tiến trình nghiên cứu văn hóa dân tộc. GS. Viện trưởng Ngô Đức Thịnh - người đã bỏ nhiều tâm huyết, trực tiếp quản lý điều hành, sưu tầm và nghiên cứu vấn đề này đã bày tỏ một số vấn đề về Vùng sử thi Tây Nguyên với mong muốn cung cấp tới bạn đọc những thông tin khoa học mới nhất về tình hình sưu tầm nghiên cứu Sử thi Tây Nguyên, cũng như những quan niệm và cách tiếp cận vấn đề của các nhà nghiên cứu.
P.V: Sử thi trước đây thường được biết đến dưới tên gọi trường ca, tráng ca, anh hùng ca, vậy theo GS, sử thi và sử thi Tây Nguyên hiện nay được hiểu như thế nào?
![]() |
GS Ngô Đức Thịnh |
P.V: Vậy những tiêu chí nào được đặt ra để nhận diện sử thi Tây Nguyên?
GS. Ngô Đức Thịnh:Đối với sử thi Tây Nguyên, theo tôi cần căn cứ vào 4 tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất: Độ dài. Đã là sử thi là phải có độ dài, có lẽ đó là một lý do mà thời trước, sử thi được gọi là trường ca. Nếu văn bản hóa, tác phẩm chỉ dày vài chục trang hay khi kể chỉ kéo dài vài chục phút, thì chưa chắc đó đã là sử thi, có thể đó là truyện cổ hay thần thoại chăng? Sử thi là loại tự sự mang tính chất trường thiên. Trên cơ sở thực tế sưu tầm, chúng tôi thấy tối thiểu độ dài diễn xướng sử thi phải là 2 - 3 giờ, tương đương với 2 băng ghi âm 90 phút. Hiện nay chúng tôi đã ghi âm được sử thi dài tới 50 giờ. Thực tế nhân dân gọi những tác phẩm sử thi là chuyện kể từ đêm này sang đêm khác- như vậy, độ dài sử thi đã trở thành một dấu hiệu đặc trưng cho thể loại. Ngay trong sử thi Tây Nguyên, vấn đề độ dài cũng không giống nhau. Sử thi Mnông, Raglai thường dài, tương đương vài chục giờ ghi băng, vài ngàn trang sách khi được văn bản hóa. Sử thi Êđê thuộc loại trung bình, quãng từ năm trăm đến một ngàn trang văn bản song ngữ. Sử thi các tộc người Bana, Giarai thường ngắn hơn - cũng có xen kẽ sử thi dài, nhưng không đặc trưng như ở tộc Mnông hay Raglai. Vấn đề độ dài, ngắn của sử thi Tây Nguyên hiện nay có thể nhìn từ nhiều góc độ, như nó là một tác phẩm hay một hệ thống các tác phẩm có mối quan hệ gắn bó về nội dung với nhau, mà các nhà nghiên cứu thường gọi là sử thi liên hoàn hay phổ hệ. Dân tộc Xê Đăng (Kon Tum) có sử thi Đăm Duông. Đăm Duông là một nhân vật anh hùng, mỗi hành động, mỗi giai đoạn trong cuộc đời Duông là một tác phẩm sử thi độc lập, có chủ đề riêng nhưng đều nằm trong bộ sử thi lớn, sử thi liên hoàn của người Xê Đăng. Ví dụ có danh mục 30 sử thi về Đăm Duông: Duông mồ côi; Duông bị bắt; Duông có năm người yêu; Duông cứu nàng Barma; Duông ở trên trời; Duông bỏ vợ.v.v...Điển hình hơn là bộ sử thi liên hoàn của người Mnông, gồm hàng trăm tác phẩm, liên quan đến thế hệ các anh hùng Tiăng, Lênh. Những tác phẩm sử thi đơn lẻ này được tập hợp, dịch ra có lẽ độ dài lên tới hàng chục ngàn trang sách.
Thứ hailà hình thức diễn xướng. Sử thi được trình diễn dưới hình thức hát kể, trong đó hát là chính, kể là phụ, xen kẽ vào các câu hát dưới hình thức lời đối thoại. Ở Việt Nam ứng với mỗi dân tộc, hình thức hát kể lại được thể hiện bằng những tên gọi riêng. Người Êđê gọi đó là khan, người Bana gọi là Hmon, người Mnông gọi là Ot Ndrông, người Giarai gọi là Hri,người Raglai gọi là Akhat Juca... Xin lưu ý một điều - điều này rất quan trọng trong công tác sưu tầm - đó là: Không phải những tác phẩm xuất hiện dưới hình thức hát kể - khan, hri, akhat juca.v.v... đều là sử thi. Rất có thể trong đó có lẫn những tác phẩm thuộc thể loại truyện cổ hay truyện thơ dài.v.v...
Diễn xướng sử thi Tây Nguyên là diễn xướng sử thi sống, do đó môi trường diễn xướng có vai trò rất quan trọng trong việc lưu truyền sử thi. Diễn xướng sử thi mỗi dân tộc ở Tây Nguyên cũng khác nhau. Có nơi khi diễn xướng sử thi người ta ngồi, có khi nằm, có khi lại tắt đèn để tạo không gian cho nghệ nhân hát kể sử thi. Một đặc điểm nữa ở sử thi Tây Nguyên là hình thức diễn xướng không có âm nhạc đệm và thường không gắn với tín ngưỡng một cách rõ rệt (khác hẳn sử thi Mường - loại diễn xướng chỉ diễn ra trong tang lễ). Chính đặc điểm này khiến sinh hoạt hát kể sử thi ở Tây Nguyên trở nên thường xuyên, phổ biến, trở thành sinh hoạt văn hóa bền chắc trong cộng đồng.
Thứ balà nội dung phản ánh của sử thi thường tập trung vào một thời kỳ lịch sử nhất định trong xã hội loài người. Sử thi Tây Nguyên phản ánh sự chuyển biến thời kỳ cuối của xã hội nguyên thuỷ, bắt đầu bước vào xã hội tiền giai cấp, xuất hiện liên minh bộ lạc thông qua hoạt động chiến tranh để tập hợp lực lượng. Trên thế giới hiện nay có hai loại sử thi là Sử thi sáng thế- xuất hiện ở giai đoạn lịch sử sớm, phản ánh quá trình hình thành vũ trụ, con người, vạn vật và văn hóa. Sử thi anh hùnglà loại xuất hiện sau, phản ánh giai đoạn phát triển cao hơn của lịch sử nhân loại. Sử thi Tây Nguyên có đủ hai loại này, song ở mỗi tộc người lại có những nét khác biệt. Nếu sử thi Mnông thường mang tính thần thoại đậm, thì sử thi Êđê đặc trưng cho sử thi anh hùng. Dẫu vậy, ngay trong các tác phẩm sử thi Mnông cũng khó phân chia rạch ròi bởi trong nhiều tác phẩm tính chất anh hùng cũng thể hiện đậm nét, và như vậy phải xếp vào sử thi anh hùng mới thoả đáng. Như vậy, chỉ với hai tộc người Êđê và Mnông, có thể nghĩ rằng xã hội được phản ánh trong sử thi Mnông có phạm vi phản ánh rộng lớn hơn sử thi Êđê. Nhìn chung, âm hưởng chủ đạo của sử thi Tây Nguyên hướng về nhân vật anh hùng. Không phải anh hùng cá nhân, mà nhân vật anh hùng đó đại diện cho khát vọng cộng đồng, là biểu tượng của sức mạnh cộng đồng. Không phải ngẫu nhiên mà tên của nhiều bộ sử thi lại chính là tên người anh hùng trong bộ sử thi đó, như Đăm Xăn, Xinh Nhã, Khinh Dú .... Chiến tranh và nhân vật anh hùng là biểu hiện của môi trường xã hội, phản ánh một giai đoạn xã hội. Đặc điểm này được Ănghen gọi là xã hội dân chủ quân sự. Các Mtaotrong sử thi Tây Nguyên vừa mang hình ảnh của người anh hùng, thủ lĩnh quân sự, vừa là người giầu có, giỏi giang. Chính các Mtao thực hiện chiến tranh với các cộng đồng khác để thể hiện sức mạnh của cộng đồng mình. Khác với sử thi Ấn Độ và Hy Lạp phản ánh thời kỳ hình thành nhà nước - sử thi cổ đại, sử thi Tây Nguyên thuộc loại sử thi cổ sơmà nội dung phản ánh như tôi đã trình bày ở trên.
Tóm lại, sử thi phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn ở những thời điểm lịch sử nhất định và nổi trội trên bức tranh ấy là môi trường chiến tranh, các cuộc chiến tranh giữa các cộng đồng và xuất hiện nhân vật anh hùng. Nghe diễn xướng sử thi thì thấy rõ không khí hào hùng của các cuộc chiến tranh và các nhân vật anh hùng, rất mạnh mẽ, dữ dội. Điều này liên quan đến tiêu chí thứ tư, đó là nghệ thuật của sử thi (Thi pháp). Nói ngắn gọn, ngôn ngữ sử thi là ngôn ngữ lời nói vần, ví von giàu hình ảnh, nổi bật là tính ngoa dụ phóng đại nhằm phản ánh sự kỳ vĩ của những cuộc chiến tranh bộ lạc mà trung tâm là người anh hùng - nhân vật được cộng đồng ký thác trách nhiệm, hình ảnh đại diện, tiêu biểu cho sức mạnh và ước vọng của cộng đồng ở giai đoạn lịch sử đó.
P.V: GS có thể cho biết những vấn đề nảy sinh trong quá trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên?
GS. Ngô Đức Thịnh:Nhìn chung có thể căn cứ vào bốn tiêu chuẩn nêu trên để nhận diện tác phẩm sử thi. Thực tế khi áp dụng vào quá trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên, nhiều vấn đề đã nảy sinh khá nan giải. Nếu việc xác định tác phẩm sử thi của người Êđê và Mnông tương đối thuận lợi khi căn cứ vào những tiêu chí nêu trên thì lại rất khó khăn khi xác định một số tác phẩm hát kể của người Xê Đăng, Bana, Giarai, Xtiêng... có phải là sử thi không? Như vậy ranh giới về 4 tiêu chí nêu trên cũng chỉ mang tính tương đối. Ranh giới giữa tác phẩm sử thi có xen lẫn yếu tố truyện cổ hoặc xen lẫn thần thoại, truyện thơ đã gây những khó khăn cho công tác sưu tầm, phân loại sử thi.
Sử thi có tính thể loại toàn nhân loại nhưng đồng thời nó cũng gắn với một môi trường xã hội, văn hóa, lịch sử của dân tộc cụ thể. Do vậy, những khó khăn trong công tác sưu tầm sử thi Tây Nguyên mà chúng ta gặp phải là một tất yếu. Rất có thể từ những độ chênh về tiêu chí nhận diện trên, chúng ta lại phát hiện ra những điều mới mẻ. Giả dụ như có hay không loại sử thi phong tụcở Tây Nguyên (bên cạnh những tác phẩm sử thi thần thoại và sử thi anh hùng), khi ở Trung Quốc người ta có thêm sử thi thiên di.
PV: Lý thuyết vùng văn hóa đã trở nên quen thuộc ở Việt Nam , vậy vùng văn hóa Tây Nguyên và vùng sử thi Tây Nguyên có gì khác nhau?
GS Ngô Đức Thịnh: Phải khẳng định ngay rằng Sử thi Tây Nguyênlà một khái niệm khoa học. Có một loại hình sử thi gắn với Tây Nguyên, chứ không phải chỉ là sử thi ở Tây Nguyên. Tương tự như cồng chiêng Tây Nguyên không xuất hiện chỉ ở năm tỉnh Tây Nguyên (trước đây là bốn). Ranh giới vùng lãnh thổ hành chính và ranh giới vùng văn hóa tại đây không trùng nhau, vùng văn hóa Tây Nguyên đã chờm ra một số tỉnh lân cận. Trong dự án, khi chúng tôi cho tiến hành sưu tầm sử thi Tây Nguyên ở Phú Yên, một số ý kiến cật vấn tại sao vậy? Câu trả lời là: trên địa bàn Phú Yên có huyện sông Hinh và Sơn Hoà, nơi mà nhiều nhà nghiên cứu khẳng định là điểm phát xuất của sử thi Êđê. Tương tự như vậy, hiện nay, công tác sưu tầm sử thi Tây Nguyên được tiến hành ở 5 tỉnh Tây Nguyên và thêm các tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Khánh Hòa (có thể cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định).
Sử thi Tây Nguyên tồn tại một cách thống nhất về thể loại, cả về kết cấu, hình thức diễn xướng, phương thức lưu truyền... Độ đậm đặc của sử thi Tây Nguyên thể hiện ở nhiều dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo như người Mnông, Êđê, Giarai, Raglai, Xê Đăng... và có thể ở một vài dân tộc nữa như Mạ, Churu, Kơho. Những điểm tương đồng trên cho phép chúng ta khẳng định chắc chắn có vùng sử thi Tây Nguyên - vùng văn hóa sử thi độc nhất vô nhị ở Việt Nam . Chỉ tiếp cận dưới góc độ văn hóa ta mới thấy hết giá trị đặc sắc của sử thi Tây Nguyên khi so sánh, đặt nó trong bối cảnh xã hội rộng lớn hơn, ở tầm quốc gia và khu vực. Có thể nói, lần đầu tiên, sử thi Tây Nguyên được sưu tầm một cách hệ thống và đồng bộ. Cũng từ đây, tính thống nhất và đa dạng được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên gây nhiều bất ngờ thú vị. Sử thi Êđê chau chuốt, sử thi Mnông gồ ghề dữ dội, sử thi Raglai gắn bó với văn hoá Chăm và xa hơn có thể cả Ấn Độ nữa.v.v... đã phản ánh xã hội và tính cách, trình độ phát triển mỗi dân tộc. Như vậy, tiếp cận sử thi Tây Nguyên từ góc độ văn hóa, chứ không chỉ từ góc độ văn học, sẽ mở ra những nhận thức mới.
P.V: Xin GS cho biết một số kết quả qua 4 năm thực hiện dự án?
GS. Ngô Đức Thịnh: Nhờ quá trình sưu tầm, phát hiện được số lượng lớn về sử thi còn tồn tại và lưu truyền trong dân, chúng ta đã thay đổi nhận thức và khẳng định có một vùng sử thi Tây Nguyên ở Việt Nam (và có thể là duy nhất ở Đông Nam Á). Điều đặc biệt là vùng văn hóa sử thi này nằm ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ của hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa.
Chúng ta cũng phát hiện một loại hình sử thi mới - sử thi liên hoàn- gồm nhiều tác phẩm kết chuỗi với nhau. Chắc chắn các dân tộc Êđê, Giarai, Raglai, Mnông, Xê Đăng đã có sử thi. Một số dân tộc khác trên cơ sở tư liệu đã sưu tầm, đang chờ sự thẩm định của các chuyên gia song khả năng khẳng định có rất nhiều hứa hẹn. Từ đây, ngoài 5 tỉnh Tây Nguyên, địa bàn sử thi Tây Nguyên đã vươn ra rộng hơn. Nhận thức mới về sử thi Tây Nguyên, không chỉ của các nhà nghiên cứu mà quan trọng hơn, của người dân và cán bộ lãnh đạo các cấp tại địa phương cũng được mở rộng và nâng lên tầm cao mới. Tâm lý tự ti dân tộc đã dần nhường chỗ cho niềm tự hào với di sản văn hóa sử thi. Việc tôn vinh các nghệ nhân, khuyến khích công tác truyền thừa đã bước đầu có ảnh hưởng tích cực đến ý thức của cả cộng đồng. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công nhận nghệ nhân hát kể sử thi là một bằng chứng tôn vinh những báu vật sống quốc gia và Viện Nghiên cứu Văn hóa mở 5 lớp truyền dạy sử thi ở Tây Nguyên là một bằng chứng có sức thuyết phục tới cộng đồng các dân tộc trong vùng sử thi Tây Nguyên.
Trong năm 2004, theo kế hoạch, chúng tôi đang tiến hành in 3 tác phẩm sử thi đầu tiên. Tiếp theo, đến năm 2007, phấn đấu in khoảng gần 70 tác phẩm nữa. Cấu trúc tiêu đề bộ sách gồm 3 yếu tố. Ví dụ bìa ngoài một cuốn sách sẽ là:
Kho tàng sử thi Tây Nguyên
Sử thi Khan Êđê
Đăm Xăn
Bộ sách khoảng 40 cuốn, có kích thước đồng loạt 14 x 26 cm, độ dày ước chừng 700 - 1200 trang/cuốn.
P.V: Những khó khăn đặt ra hiện nay đối với công tác sưu tầm sử thi Tây Nguyên là gì?
GS. Ngô Đức Thịnh: Như đã nói, việc thay đổi nhận thức về sử thi Tây Nguyên đã khiến chúng tôi ý thức sâu sắc rằng đây là một công việc khó khăn, cần nhiều thế hệ chung tay góp sức. Quả thực, những khó khăn đặt ra thực tế đã vượt quá những gì chúng tôi dự tính. Từ công tác sưu tầm đến in ấn xuất bản là cả một chặng đường gian nan. Giả dụ sử thi Đăm Xănđã qua 4 thế hệ các nhà nghiên cứu (kể từ Sabatier - 1927) đến nay vẫn tiếp tục được hoàn thiện về mặt văn bản. Chủ trương in song ngữ (tiếng dân tộc - tiếng Việt) nhằm tôn vinh và phục vụ chính chủ nhân của các tác phẩm sử thi, tạo điều kiện phổ biến rộng rãi trong đời sống nhân dân các dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là những công tác chuyển ngữ, biên dịch và hiệu đính, chú giải căn bản. Hiện nay, 12 tác phẩm đang hoàn thiện bước cuối, chờ in. Song quả thực, nếu không vì thời gian bức bách, chúng tôi sẽ cho ra bản in có chất lượng cao hơn.
Năm 2004, từ thực tế sưu tầm sử thi Tây Nguyên, chúng tôi quyết định lựa chọn, đầu tư điều tra đối với những dân tộc có sử thi điển hình, sau đó xử lý sớm và văn bản hóa ngay. Đối với những dân tộc đang chờ đánh giá chính thức của giới nghiên cứu (đúng là có sử thi hay không) thì xử lý bổ sung vào các năm 2005, 2006, 2007. Như vậy, về mặt tiến độ, chắc công trình sẽ kéo dài hơn dự kiến một chút.
PV: Xin GS cho biết vài nét bức xúc đặt ra và dự định của Viện trong thời gian tới.
GS Ngô Đức Thịnh: Vấn đề lớn nhất đặt ra hiện nay là chúng ta đang đứng trước sự chuyển biến mang tính lịch sử của Tây Nguyên nói riêng và vùng Nam Trung Bộ nói chung. Đội ngũ trí thức của các dân tộc có sử thi Tây Nguyên đang thiếu hụt nghiêm trọng, nói đúng ra là chưa hình thành. Vậy, công tác bảo tồn và phát huy di sản vùng sử thi Tây Nguyên sẽ ra sao nếu thiếu vắng lực lượng quan trọng này. Trước mắt, công tác biên dịch, hiệu đính văn bản đã sưu tầm đối với chúng tôi đang đặt ra những khó khăn nan giải. Đây chính là chiến lược phát triển văn hóa mà Nhà nước và nhân dân cùng phải bắt tay hợp tác lâu dài mới đem lại thành quả được. Nhờ tài trợ một phần của quỹ Ford, Viện chúng tôi đang đào tạo một lớp cao học cho đối tượng là cán bộ người Tây Nguyên. Hy vọng lực lượng trí thức trẻ này sẽ là nòng cốt trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản sử thi hiện tại và mai sau.
Trước mắt, công tác bảo tồn và phát huy di sản sử thi Tây Nguyên dù muộn mằn, song cần thiết phải tiến hành dù là công việc mang tính chất chữa cháy. Khuyến khích nghệ nhân truyền dạy sử thi cho con em mình. Và quan trọng nhất là tác động đến nhận thức của nhân dân để họ hiểu rằng vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá mỗi tộc người là công việc của chính họ - là lực lượng chủ động. Việc hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức khác chỉ mang tính chất hỗ trợ mà thôi.
Dự kiến tiếp theo, chúng tôi đề nghị một dự án mới về chương trình bảo tồn và phát triển sử thi, đưa sử thi về cộng đồng và bước đầu tiến hành nghiên cứu sâu đối với khối lượng sử thi đã được sưu tầm, xuất bản.
PV: Như vậy, công việc của Viện Nghiên cứu Văn hóa còn rất bề bộn, chắc chắn mối gắn bó với vùng sử thi Tây Nguyên còn bền chặt vì sự nghiệp phát triển văn hóa nói chung. Xin cản ơn GS đã dành cho Văn hóa - Nghệ thuật cuộc trao đổi thú vị này.