Vùng đất Kim Cốc, quê hương Lê Nhân Quý dưới cái nhìn Địa – Văn hoá
Nét căn bản của địa hình Mai Lâm là đồi núi vây quanh những dải đồng bằng hẹp và dài, là vùng bằng cát mặn bãi triều, xen kẽ những dải đất trũng lầy thụt nơi sinh sản của sú vẹt và phù du. Trạng thái lồi lõm, đứt nối của địa hình Mai Lâm (cũng như toàn vùng, Tân Trường, Trường Lâm, Trúc Lâm, Mai Lâm, Tĩnh Hải, Hải Yến, Hải Hà, Nghi Sơn) là một phần hình ảnh cổ xưa còn sót lại của lãnh thổ đồng bằng Thanh Hoá hình thành cách ngày nay khoảng 2 triệu năm trong kỷ Đệ Tứ phủ nông lên nền đất cổ ổn định. Đặc điểm môi trường sinh thái, nhân văn của Mai Lâm rất đa dạng, phong phú, trực tiếp ảnh hưởng đến diễn trình lịch sử, kinh tế, xã hội của cư dân địa phương trong suốt mấy nghìn năm qua, kể từ khi có các cộng đồng cư dân đặt chân đến mảnh đất này.
Ở một không gian rộng hơn, vùng Kim Cốc – Mai Lâm nằm trọn trong vùng đất duyên hải miền ven biển phía nam Thanh Hoá, nơi có bờ biển dài hơn 40 km với 3 cửa biển tạo nên từ sông Yên, sông Bạng và sông Hà Nẫm, trong đó sông Bạng trong quá trình lịch sử đã đóng vai trò quan trọng để tạo nên những dải đồng bằng nhỏ hẹp ven sông, sát biển ở phía nam Tĩnh Gia với phần nhiều là đất cát, đất bạc màu và chua mặn. Đây cũng là nơi có nhiều bãi biển và vụng biển nổi tiếng như Hải Hoà, Lạch Bạng, Nghi Sơn… Tuyến bờ biển đó, với những cồn cát nổi lớn chạy dọc từ cửa Lạch Bạng vào Nghi Sơn ở phía nam là yếu tố để hình thành nên những cộng đồng cư dân ven biển của tổng Duyên La từ đầu thế kỷ XIX gồm các cụm làng ven biển đặc trưng theo địa lý và nghề nghiệp như: Trúc Lâm, Tùng Lâm, Trường Lâm, Mai Lâm (nội đồng) và cụm làng Hải Hà, Tĩnh Hải, Hải Yến, Hải Thượng, Nghi Sơn (sát mép nước biển)… Cư dân vùng này tuy sống ven biển nhưng do điều kiện môi trường và phương tiện khai thác thuỷ sản còn hạn chế, nên chỉ một bộ phận trong số họ sinh sống bằng nghề biển. Phần dân cư còn lại sinh sống bằng nghề nông, trồng các loại cây hoa màu trên các vùng động cát và một ít lúa nước trong những dải đất hẹp ở các cồn bàu ven biển; cây chè xanh và một số cây ăn quả lâu năm được trồng trên các đồi đất; ở vùng trũng và lầy thụt, các bãi triều, rừng ngập mặn là nơi sinh sống chủ yếu của các loài cây vẹt trụ, sú ổi và một nguồn lợi thuỷ sản đặc sản như tôm, cua, hến, sò, cá măng sữa, rong câu, rong mơ… chính điều này đã tạo nên những nét văn hoá mang đặc trưng riêng không giống các làng xã ngư nghiệp khác vốn là những làng thuần ngư. Đây là những làng duyên hải nhưng đền thờ của làng thì thờ tiền khai canh vốn làm nghề chài lưới, nhưng hậu khai khẩn lại là dân làm ruộng; vừa có lễ hội cầu ngư nhưng vừa có lễ đảo vũ (cầu mưa), cầu cho mùa màng phong đăng hoà cốc mà các làng như Du Xuyên (Hải Thanh), phường Biện Sơn (Nghi Sơn) là những tiêu biểu.
Bên cạnh hệ sinh thái biểnvùng Kim Cốc – Mai Lâm còn tồn tại của hệ sinh thái nông nghiệp. Đặc trưng cơ bản của hệ sinh thái nông nghiệp ở đây nằm trong đặc trưng chung của nông nghiệp miền Trung mà do tính chất khí hậu nhiệt đới cũng như điều kiện địa hình nên vùng này không có những dải đồng bằng rộng rãi. Những biến đổi thất thường của thời tiết như mùa hè thường có gió lào, nhiều khi nóng tới 40 độ C, mùa mưa thường có bão lớn và sóng thần đã làm cho vùng đất Mai Lâm và toàn vùng trở thành vùng nông nghiệp khá đặc trưng, không phải là thứ nông nghiệp chuyên canh, độc canh như các đồng bằng lớn. Đó là thứ nông nghiệp luân canh, xen canh trên những cánh đồng hẹp, chỉ có thể ăn chắc một vụ, còn vụ kia cũng như đánh bạc với trời đất do mưa lũ liên miên. Điều này dẫn đến mô hình nửa làng nghề, nửa làng ruộng tồn tại trong rất nhiều làng xã ở vùng này.
Tại sườn núi Chè (núi Tháp) và trên những gò đất cao ở làng Kim Cốc – Mai Lâm, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Đông Sơn (1) cách đây hơn 200 năm. Có lẽ sự hấp dẫn của cư dân Đông Sơn và vùng đất này chính là sự khao khát khai thác vùng đất mới ven biển giàu tôm cá; nhưng sau đó do địa hình và đời sống khắc nghiệt, cư dân Đông Sơn ở Kim Cốc – Mai Lâm đã không phát triển lên thành một cộng đồng dân cư lớn để khai thác vùng đất mới này một cách liên tục nên ngày nay chúng ta chỉ còn tìm được những dấu tích ít ỏi phản ánh về đời sống vật chất và tinh thần qua di vật của họ. Sau kỷ nguyên Đông Sơn, tiếp đến 1000 năm Bắc thuộc vùng đất này vắng bóng những lớp cư dân mới. Đến thời Lý - Trần đất Kim Cốc – Mai Lâm và toàn vùng phía nam Tĩnh Gia trở thành vùng đất phên dệu trực tiếp của Quốc gia Đại Việt. Đây là vùng đất nằm trong tuyến hậu cần Bà Hoà do Uy minh vương Lý Nhật Quang (con thứ 8 của Lý Thải Tổ) xây dựng và ông cũng là người được triều đình cho đảm trách trị nhậm khi làm Tri Châu Nghệ An. Cả vùng Du Độ bao gồm các làng Ngọc Đường, Kim Cốc, Cao Lư, Vinh Quang (nay là các xã Hải Yến, Tĩnh Hải, Mai Lâm) trở thành một vùng đất mà Lý Nhật Quang cho xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng. Ông chủ trương cho đắp đê, ngăn mặn, chắn lũ nên hàng trăm mẫu ruộng được thau chua rửa mặn, dân cư dần đông đúc và nhiều làng mới được ra đời trong các thế kỷ sau đố. Lý Nhật Quang cũng đã cho lập cảng biển ở cửa sông Bà Hoà (Lạch Bạng); con sông này đã nối đến Tường Lâm (nơi đặt kho lương thực và vũ khí) tới khe Nước Lạnh để vào Nghệ An, trở thành tuyến đường thuỷ huyết mạch để đảm bảo an ninh và hậu cần cho chiến trường. Ông cũng cho mở tuyến đường hạ đạo (Tiền thân là đường 7 ngày nay) được nối qua Diễn Châu đến phủ Bạch Dường (Đô Lương - Nghệ An) nhằm mục đích vận chuyển lương thực và vũ khí phục vụ cho các cuộc chinh phạt giặc Chiêm thành ở phía nam (2). Những sử liệu ấy cho thấy vị trí về chiến lược của vùng đất Mai Lâm cũng như cả vùng phên dậu phía nam Đại Việt có tầm quan trọng cho sự hưng vong của đất nước.
Song vào thế kỷ XI – XIV thì những kiến văn về địa bàn Kim Cốc – Mai Lâm chưa có khả năng thu thập đủ mà chúng ta ngày nay chỉ có thể biết được quá trình hình thành cộng đồng làng xã ở vùng này từ thế kỷ XV trở đi khi mà các ông tổ của dòng họ Lê Nhân là Lê Nhân Thực, họ Nguyễn (Nguyễn Tông), họ Trần (Trần Công Sủng) đến Mai Lâm dựng làng Kim Cốc. Và, cho đến cuối thời Lê – Kim Cốc đã là một làng xã lớn ổn định nằm trong 31 xã, thôn, phường giáp của tổng Duyên La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (3) với đầy đủ các thiết chế xã hội, văn hoá như đình thờ thần hoàng, chùa thờ phật, văn chỉ thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền, nhà thờ họ thờ tiên tổ… Như vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển, vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm được coi là nơi tiếp nhận các luồng văn hoá khác nhau: Thời Hùng Vương dựng nước là văn hoá Đông Sơn; thời trung đại là nơi giao thoa giữa văn hoá xứ Bắc và văn hoá xứ Nghệ; thời cận đại là nơi kết hợp giữa nhiều vùng văn hoá khác nhau với nhiều dòng người đến đây sinh cơ lập nghiệp… Tất cả đã tạo nên một diện mạo văn hoá vùng có đặc điểm riêng. Đấy chính là một lối sống dựa vào điều kiện tự nhiên của một vùng địa hình có sông – núi - biển - đất đai(ngập mặn, bãi cát) để hình thành nên một cộng đồng cư dân có phong tục, tập quán, tín ngưỡng… khác với cư dân vùng đồng bằng, miền núi, trong Nam ngoài Bắc cũng như trong huyện cách đó không xa.
Trong cái nhìn gắn với môi trường sinh thái nhân văn, có thể kiến giải sự đa dạng, nhưng mang tính đặc thù của văn hoá vùng Kim Cốc – Mai Lâm trên một số khía cạnh cụ thể như sau:
- Môi trường sinh thái Kim Cốc – Mai Lâm có các hệ sinh thái cửa sông - đầm lầy - cồn cát - đồng bằng - đồi núi, nên hình thành trong cộng đồng cư dân ở đây một tập quán kinh tế, xã hội, văn hoá đặc trưng: Làm ruộng – đánh bắt hải sản(vừa là nông dân - vừa là ngư dân), đan lát – làm ruộng, nấu rượu, làm ruộng, làm mộc – làm ruộng(vừa làm nghề thủ công - vừa làm ruộng), thuần nông, khai thác lâm sản(gỗ củi trên núi), trong đó lấy nông nghiệpvà đánh bắt hải sảnlàm chính…
- Xem xét hệ thống thần linh ở các làng của Mai Lâm bao gồm những thần linh vốn hiện diện phổ biến lâu đời trong đời sống văn hoá Việt như Táo quân, Thổ công, Thổ địa, Thành hoàng, Thuỷ thần, Sơn thần, Sát hải đại vương, Đế Thích…, các nhân thần là những người có công với làng với nước như Lê Nhân Thực - Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, Lê Nhân Quý – Đông các Đại học sĩ, Lê Kim - Đặc Tiến phụ quốc thượng tướng quân… Hệ thống thần linh này phản ánh rằng thành phần cư dân ở Mai Lâm thờ cúng nhiều vị thần linh khách nhau, trong đó các vị thần linh này phản ánh những quan niệm khác nhau về đời sống tinh thần trước môi trường sống của họ. Nương nhờ biển cả nên thờ Sát Hải đại vương, lo trừ giặc giã nên thờ Uy minh vương Lý Nhật Quang, cầu cho mưa thuận gió hoà, trời yên bể lặng nên thờ Thuỷ thần; nhớ ơn công lao người khai sơn phá thạch nên thời các vị tiền khai canh Lê Nhân Thực, Nguyễn Tông, Trần Công Sủng. Làng Kim Cốc có đến ba hòn núi là núi Chè, núi Cốc, núi Đòn nên dân làng vừa phải lên núi kiếm củi, đào củ rừng, vừa phải xuống biển mò cua, tôm, sò, ngao về ăn nên trong Hội làng Cốc tổ chức vào Rằm tháng Giêng hàng năm vừa có nghi lễ cầu Sơn thần phù hộ cho chân cứng đá mềm, vừa có nghi lễ cầu Thuỷ thần ban cho sóng yên gió lặng. Hàng năm dân làng còn tổ chức các ngày Lễ cúng cơm mới, Lễ xuống đồng, Lễ mở cửa rừng… đấy là những nét kỳ thú trong sinh hoạt văn hoá làng xã ở vùng này.
- Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian, ngoài thờ những vị thần có nguồn gốc bản địa thì tín ngưỡng thờ Đế Thích ở cộng đồng cư dân Mai Lâm có liên quan đến vị thần cổ Ấn Đố - Indra. Indra là vị thần quan trọng của tín ngưỡng thời kỳ Veda, giữ nhiều chức năng như thần Mưa, thần Sấm sét. Đó là vua các vị thần. Ở Việt Nam , tín ngưỡng thờ Đế Thích được thờ chính ở chùa Vua (Hà Nội) và trong các phật điện của các chùa làng. Ở đây, hình ảnh Đế Thích (Indra) và Phạm Vương (Brama) - vị thần tối cao của đạo Bàlamôn là những kẻ tuỳ tòng đứng hai bên đức Phật. Thần tích chép về lai lịch thần Đế Thích, ngoài việc liên quan đến Phật giáo, lại được quan niệm là ông Tiên cao cờ chắc là do ảnh hưởng của Đạo giáo. Đình làng Hữu Lại ở Mai Lâm là nơi thời Đế Thích, rõ ràng là có ảnh hưởng của Đạo giáo ở vùng này.
- Là vùng đất nằm ở vị trí gần biển, gần sông, gần hải cảng, đã từng có thời gian trong lịch sử, Kim Cốc – Mai Lâm và các làng xã ở phía nam Tĩnh Gia có vị trí vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị và quân sự (kèm theo đó là văn hoá) nhưng sử sách chỉ ghi chép quá trình lịch sử của vùng này với vai trò một vùng đất phên dậu cho đất nước trong mọi triều đại hơn là những sáng tạo văn hoá của cộng đồng. Điều thấy rõ hơn cả là tại đây có một nền văn hoá Đông Sơn của cư dân Việt cổ sống trên núi Chè thuộc Kim Cốc – Mai Lâm (có thể còn có những dấu tích của lớp cư dân này trên các hòn đảo tiền tiêu như Biện Sơn, hòn Bạng… mà chúng ta chưa có những công cuộc điều tra cơ bản), như thế có thể thấy môi trường sinh thái ở đây đã có sức hấp dẫn lớp cư dân Việt cổ đến đấy sinh sống như một vùng đất trung tâm của vùng ven biển Tĩnh Gia, nhưng lớp cư dân này đã lụi tàn. Sau đó là thời kỳ 100 năm Bắc thuộc, 5 thế kỷ tiếp theo của Nhà nước Đại Việt – vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm mất vai trò trung tâm, không có con người định cư nữa – nó đã trở thành đất trại “ Thành cao, luỹ sâu - chứa được ba bốn vạn quân. Kho tàng tiền lương đã dùng trong 3 năm” phục vụ phòng tuyến hậu cần quan trọng cho việc bảo vệ vững chắc vùng đất biên giới phía nam đất nước, do đó mà làng xã ở đây trong nhiều thế kỷ không có điều kiện để tồn tại và phát triển. Đến thế kỷ XV, một lớp cư dân mới đến khai khẩn vùng đất này, họ đều có chung một nguồn gốc của các làng Việt ven biển ở Hải Dương, Nghệ An và các vùng khác dọc bờ biển. Sự vững bền ý chí của người dân ở đây trong suốt 5 thế kỷ qua đều có cội nguồn văn hoá từ những người Việt cần cù, dũng cảm từ đất liền. Đến đây, một lần nữa họ lại được tôi luyện trước thử thách của sóng gió đại dương, làm cho những cư dân vốn có gốc từ nông dân ấy càng vững bền mạnh mẽ hơn nữa. Sống ở vùng đất ven biển nhưng những người dân ấy vẫn mang đầy đủ những nét văn hoá của những miền quê nơi họ sinh ra với những phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng Việt cổ vốn đã tồn tại từ ngàn đời. Đời sống văn hoá cũng như phong tục tập quán của cư dân Kim Cốc – Mai Lâm mà tiêu biểu là dòng họ Lê Nhân với một truyền thống tốt đẹp về học hành, về lối sống “Tam xử thiện” (trong họ thì thương yêu, trong làng thì thân thiết, ngoài làng thì giúp đỡ) đã tạo nên cốt cách của một dòng tộc, con cháu nối đời làm nên nhiều vũ công hiển hách cho thấy rõ điều đó.
- Điều cuối cùng chúng ta cần khẳng định, môi trường sinh thái đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên diện mạo của một vùng đất, cũng như tác động trực tiếp đến đời sống, kinh tế, lịch sử, văn hoá của các cộng đồng cư dân. Sự gắn bó giữa tự nhiên với xã hội trong một sinh cảnh tương ứng của vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm trong lịch sử là điều dễ dàng nhận thấy. Ở thế kỷ XV, vùng đất này đã sản sinh và nuôi dưỡng những người con ưu tú của dòng họ Lê Nhân như Lê Nhân Thực, Lê Nhân Quý, Lê Nhân Kim và con cháu nối đời làm nên nhiều võ công hiển hách; các dòng họ Nguyễn, họ Trần ở đây cũng phát huy được truyền thống ấy – nhưng vùng đất này chỉ sáng về mặt võ nghiệp, còn về văn nghiệp thì lại khiêm tốn. Điều này chỉ có thể cắt nghĩa: môi trường sinh thái – nhân văn ở đây là yếu tố quan trọng để tạo nên sự tiếp nối hay đứt gãy của truyền thống văn hoá một vùng đất.
______________
- Năm 1977, tại Núi Chè (Kim Cốc – Mai Lâm – Tĩnh Gia) các nhà Khảo cổ học đã phát hiện ra một nhóm hiện vật đồ đồng và đồ gốm phong phú.
- Ngày nay ở các làng Đông Loan, Phấn Tỉnh, Duyên La Thái (Trúc Lâm), Kim Cốc (Mai Lâm) thuộc huyện Tĩnh Gia đều có đền thời Uy minh vương Lý Nhật Quang.
- Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1985, tr. 116.