Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 24/05/2006 23:02 (GMT+7)

Vừa đánh vừa đàm: truyền thống nghìn năm của Việt Nam

Vừa đánh vừa đàm trong lịch sử

Khi xuất hiện cách đây mấy nghìn năm, nước ta phải chiến đấu và tồn tại, đương nhiên ngoại giao phải phục vụ cuộc chiến đấu đó. Tuy bị các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm chiếm trong hơn một nghìn năm, nhưng nước ta vẫn giữ được bản sắc dân tộc, và đó cũng là điều kỳ diệu trên mảnh đất được coi là “ngã tư của các nền văn minh” .

Từ năm 938 dân tộc Việt Nam chấm dứt được sự đô hộ của nước ngoài, mở ra kỷ nguyên độc lập kéo dài đến khi bị Pháp chinh phục giữa thế kỷ thứ XIX. Trong chín thế kỷ đó, nước ta thi hành chính sách ngoại giao hòa bình hữu nghị đối với các nước khác, chủ yếu là các nước Đông Nam Á.

Đối với đế chế Trung Hoa, từ đời Tống đến đời Thanh, nước ta trong thời bình thi hành chính sách “trong xưng đế ngoài xưng vương”, nghĩa là giữ trọnchủ quyền đối nội và đối ngoại nhưng thừa nhận uy quyền của thiên tử và chịu cống ba năm hay sáu năm một lần. Nói chung thì như thế nhưng không phải tất cả các Vua Việt Nam đều phải đợi sách phong của thiên triều mới lên ngôi như các vua Trần ở thế kỷ XIII, XIV. Điều đó cũng không có nghĩa là cống nộp phải đúng cống phẩm, đúng thời hạn theo yêu cầu của thiên triều. Tất cả là vấn đề so sánh lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Khi Trung Quốc bị nước Kim đánh, chẳng phải có vua Tống phải xin từ bỏ danh hiệu thiên tử và làm bầy tôi nhà Kim đó sao?

Mặc dầu Việt Nam luôn luôn coi trọng giữ gìn quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, các triều đại Trung Quốc từ Tần, Tống đến Minh, Thanh không triều đại nào không cất quân đánh Việt Nam, ít thì cũng một lần, nhiều thì ba lần, lần ít cũng 10 vạn quân, lần nhiều thì 50 vạn quân hay hơn nữa. Dù biết chiến tranh là tàn khốc, dân tộc Việt Nam không có con đường nào khác là chiến đấu để tồn tại.

Năm 980 vua Bắc Tống sai sứ sang dụ vua Lê Đại Hành lựa chọn hoặc hàng hoặc là bị đánh bại. Vua Lê không chịu hàng và đánh bại cả lục quân, thuỷ quân của Tống nhưng sau đó lại khôi phục quan hệ với nhà Tống.

Năm 1077 vua Nam Tống sai Quách Quì mang 10 vạn quân sang đánh Đại Việt. Lý Thường Kiệt cắt đường tiếp tế của quân Tống, chặn chúng trước phòng tuyến sông Cầu rồi “dùng biện sĩ bàn hoà” với những điều kiện phải chăng: chấm dứt can qua giữa hai nước, quân Tống rút về nước; đất nào quân Tống đã chiếm là đất Tống. Trong tình thế tiến không được, ở không xong, Quách Quì đành rút quân, bỏ đất. Hoà bình được lặp lại, Lý Thường Kiệt thu hồi những đất đã bị chiếm.

Việc các vua Trần chống lại âm mưu xâm lược của nhà Nguyên thật gian nan và phức tạp. Năm 1258, khi chưa đánh xong nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã cho quân xâm lược nước ta lần thứ nhất. Vua Trần Thái Tông tính rằng sớm muộn Mông Cổ sẽ tiêu diệt nhà Tống và còn xâm lược nước ta, nên cử sứ sang tận Thiểm Tây đặt quan hệ với Mông Cổ và nhận sẽ cống Mông Cổ. Mặt khác nhà vua chuẩn bị tích cực chuẩn bị binh mã, đồng thời dùng ngoại giao tạo thế hoà hoãn, đẩy lùi càng xa càng tốt cuộc xâm lược lần thứ hai của Mông Cổ. Từ năm 1258 đến 1285, nhà Trần và nhà Nguyên đấu tranh quyết liệt về việc nhà Trần không chịu thi hành 6 yêu cầu của Hốt Tất Liệt trong đó có yêu cầu đòi vua nhà Trần sang triều cận Nguyên Thế Tổ. Vua Trần vẫn nộp cống, cử sứ sang Trung Quốc, thậm chí nhận cả mộtdarugatri(quan giám sát người Mông Cổ), nhưng kiếm mọi lý do để không chầu hoàng đế Nguyên. Hết kiên nhẫn, năm 1285 hoàng đế Nguyên cử con là Thoát Hoan mang 50 vạn quân phối hợp với 8 vạn quân từ Chămpa tấn công Đại Việt. Nhưng với gần 60 vạn quân, Thoát Hoan vẫn bị đánh tơi bời. Như vậy với chính sách ngoại giao thích hợp, vua Trần đã tạo được thế hoà hoãn trong 27 năm để chuẩn bị tinh thần, lực lượng, lương thực nghênh chiến cuộc xâm lược thứ hai của nhà Nguyên.

Nhà Minh thừa lúc nhà Hồ lật nhà Trần đã xâm chiếm nước ta năm 1406, sáp nhập Đại Việt vào nước Đại Minh. Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, nhân dân ta nổi lên chống lại. Gặp lúc khó khăn, Lê Lợi dùng ngoại giao giảng hòa với các tướng Minh để có thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị đánh lớn. Năm 1426, nghĩa quân đã giải phóng được nửa phía Nam của đất nước và tiến ra vây thành Đông Quan đang do 10 vạn quân Minh chiếm giữ. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã cử người vào thành Đông Quan thuyết phục Vương Thông chấm dứt cuộc chiến tranh và bảo đảm cho quân Minh rút lui an toàn. Vương Thông nhận lời rút quân về nước dù chưa có lệnh triều đình. Cuộc chiếm đóng của quân Minh đến đây chấm dứt và từ đây cho đến cuối thế kỷ XVIII Trung Quốc không lần nào động binh chống Đại Việt.

Năm 1788, 29 vạn quân Thanh kéo vào Đại Việt nhưng tết năm 1789 đã bị vua Quang Trung đánh tan trong một trận, nhưng sau đó đã cử sứ sang “tạ tội” nhà Thanh. Nhà Thanh đành nối lại quan hệ với Đại Việt, thậm chí đón tiếp long trọng đại diện của Quang Trung sang mừng thọ 80 tuổi hoàng đế Càn Long. Thái độ mềm mỏng của vua Quang Trung đã kịp thời dẹp được cơn thịnh nộ của Càn Long, giữ được thể diện của thiên triều, tránh được cuộc chiến tranh phục thù mà Càn Long đang chuẩn bị. Trong tất cả các cuộc chiến tranh chống phong kiến Trung Quốc, bao giờ dân tộc ta cũng phải chống lại một kẻ địch mạnh hơn. Nhưng ông cha ta có đường lối kháng chiến đúng đắn, biết tiến hành chiến tranh nhân dân, biết vừa đánh vừa đàm nên đều giành thắng lợi cuối cùng.

Vừa đánh vừa đàm trong chiến tranh chống Mỹ

Năm 1954, Mỹ ở cái thế phải chấp nhận Hội nghị Geneve đi đến kết thúc nhưng mưu tính nước cờ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam Á nên trước khi hiệp định Geneve được kí kết đã buộc Pháp phải gạt bỏ Hoàng thân Bửu Lộc để cho Ngô Đình Diệm làm thủ tướng miền Nam, dọn đường cho Mỹ nhảy vào miền Nam thay thế Pháp, phá hoại hiệp định Geneve. Sau khi chính quyền thân Mỹ không dẹp nổi phong trào phản đối của nhân dân miền Nam, Mỹ tính can thiệp mạnh mẽ vào miền Nam. Chính quyền Johnson đã dựng lên cái gọi là sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” để tranh thủ một nghị quyết của quốc hội cho phép Tổng thống đưa quân Mỹ sang Việt Nam khi cần thiết. Nhà Trắng cử hai sứ giả Canada sang Hà Nội để ép miền Bắc từ bỏ chi viện cho miền Nam trực tiếp chiến đấu, đồng thời mở chiến dịch rầm rộ tuyên truyền thương lượng không điều kiện với Việt Nam DCCH.

Nhân dân Việt Nam để bảo vệ quyền độc lập và quyền sống của mình phải đứng lên chống lại nước mạnh nhất, giàu nhất của phe Tư Bản. Nhưng chúng ta đã giương cao ngọn cờ chính nghĩa, kiên quyết tố cáo tội ác xâm lược của Mỹ, vạch trần thủ đoạn “thương lượng không điều kiện”giả rối của Johnson. Tổng Thư ký Liên hợp quốc U Thant, các nước không liên kết, Giáo hoàng Jean Paul II cùng các nước xã hội chủ nghĩa lên tiếng đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam. Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam hình thành từ đó và ngày càng mở rộng và tăng cường, lôi kéo hàng trăm triệu người Mỹ chống lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Những thất bại của quân Mỹ trong hai mùa khô 1965-66, 1966-67, những tổn thất nặng nề của không lực Mỹ trên miền Bắc, quả bom Tết Mậu Thân khi Việt Nam quyết định đẩy mạnh ngoại giao thành một mặt trận kết hợp với mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, buộc tổng thống Johnson phải đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở lên, khước từ ra tranh cử tổng thống một nhiệm kỳ nữa và tuyên bố sẵn sàng gặp đại diện Việt Nam DCCH để bàn việc tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam.Thế là Mỹ đi vào cục diện vừa đánh vừa đàm như ta mong muốn.

Cuộc đàm phán tay đôi Việt - Mỹ bắt đầu ngày 13-5-1968. Sau năm tháng nói chuyện, hai bên đi đến việc Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam DCCH từ ngày 1 tháng 11 năm 1968. Ta đã buộc Mỹ xuống thang chiến tranh một nấc quan trọng.

Từ ngày 25 tháng giêng năm 1969 bắt đầu cuộc hội nghị bốn bên: Việt Nam dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa. Đây là một diễn đàn công khai không thích hợp cho việc tìm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Ngày 8 tháng 5 năm1969, Trần Bửu Kiếm, Trưởng đoàn Đại biểu MTDTGP miền Nam đưa ra giải pháp sơ bộ 10 điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Mặt trận đưa ra một kế hoạch toàn bộ để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam với một thái độ xây dựng. Hai điểm chủ yếu của kế hoạch là giữ quân miền Bắc ở miền Nam và xoá bỏ chính quyền Sài Gòn. Để khỏi bị động, ngày 14 tháng 5 tổng thống Nixon buộc phải đưa ra kế hoạch tám điểm mà hai điểm chủ yếu là quân miền Bắc rút cùng quân Mỹ và giữ chính quyền Sài Gòn. Từ 1970 Việt Nam DCCH và Mỹ cử Lê Đức Thọ và Kissinger mở một diễn đàn mới để bí mật thương lượng. Sau khi vào Nhà Trắng, Nixon đã tuyên bố chiến lược “Việt Nam hóa chiến tramh” với đợt đầu là rút ra 25.000 quân Mỹ. Ý đồ của Mỹ là rút được quân Mỹ mà vẫn giữ được ngụy quyền, tăng khả năng chiến đấu của ngụy quyền để nó đủ sức thay thế quân Mỹ, tiếp tục cuộc chiến tranh. Nhưng chỗ yếu của Việt Nam hóa là, rút quân nhỏ giọt và không định rõ ngày rút hết. Ta liên tiếp đòi Mỹ không được rút nhỏ giọt và phải định ngày rút hết quân Mỹ, buộc Mỹ cứ phải tiếp tục hết đợt này đến đợt khác. Đến cuôi tháng 8-1972, Mỹ chỉ còn lại 27.000 quân ở miềm Nam Việt Nam.

Trong thế thắng và trước bối cảnh quốc tế biến chuyển không lợi cho ta, từ tháng 6 năm 1972, ta chủ trương chuyển từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hoà bình và sau ba tháng thăm dò ý đồ của Mỹ, ngày 8 tháng 10, ta chủ động đưa dự thảo Hiệp định về giải quyết vấn đề Việt Nam và dự thảo Tuyên bố về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Đúng như ta nhận định, phía Mỹ đi ngay vào thảo luận dự thảo Hiệp định đó và đến cuối tháng 10-1972 hai bên đã thỏa thuận ký Hiệp định vào ngày 31-10-1972, Sau đó phía Mỹ yêu cầu sửa lại nhiều điểm do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chính quyền Nixon nêu ra nhằm trì hoãn việc kí và có thêm thời gian đổ thêm máy bay, xe tăng, đại bác của quân đội Sài Gòn để chúng có sức chống lại chủ lực của Chính phủ cách mạng lâm thời khi quân Mỹ đã rút hết. Sau khi bị Việt Nam và dư luận rộng rãi trên thế giới kịch liệt phê phán, Mỹ phải bàn bạc thêm ba đợt với Việt Nam để hoàn thành Hiệp định. Ngày 27 thánh giêng năm 1973, Mỹ và chính quyền Thiệu phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiếm tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.

Phản đối Mỹ rút quân nhỏ giọt, đòi Mỹ ấn định ngày rút hết quân, đồng ý trao trả tù binh và rút hết quân cùng ngày phối hợp với phong trào phản chiến ở Mỹ, thỏa thuận ngừng bắn. Thế là Mỹ phải rút quân. Từ đó, ta liên tiếp trừng trị lấn chiếm, chống phá bình định, đòi ngừng bắn, giải phóng Buôn Ma Thuột, rồi Huế, Đà Nẵng, Khu V, đòi lập chính quyền không có Thiệu, tổng tiến công Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thế là lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi bước đi quân sự là một bước đi ngoại giao. Ta đã đánh cho Mỹ cút rồi đánh cho ngụy nhào, thực hiện đúng phác đồ chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử nghìn năm, nhân dân Việt Nam kiên quyết chống ngoại xâm để giữ gìn non sông đất nước, luôn luôn kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, biết khởi sự chiến tranh, biết kết thúc chiến tranh.

Nước nhà từ nay bền vững

Non sông bởi nó đẹp tươi.

(Nguyễn Trãi)

Nguồn: Xưa & Nay, số 131, 1-2003

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.