Vũ trụ âm dương
“Chắc chắn quan niệm nguyên tử đầu tiên là do người Hy Lạp có trước, nhưng tôi có thể chứng thực rằng ý niệm về ba động thực là nguyên lai ở Trung Hoa, bởi vì mỗi khi người ta thấy mô tả tác dụng của Âm – Dương thì luôn luôn là một quá trình cực cao và cực thấp, khi cái nọ lên thì cái kia xuống, đấy là quan niệm về ba động. Quan niệm bản lai về nguyên tử như là cái gì không thể phân chia được thì thực là ý niệm của Hy Lạp hay Ấn Độ, còn ý niệm về ba động có tăng có giảm, có lên có xuống, có thể gọi được là ý niệm Trung Hoa”.
Cái “đàn cò trắng bay chung” ấy chính là đoàn thể cộng đồng của xã hội nông dân nguyên thủy. Bên nam bên nữ, đàn ông đàn bà, chính là cách thức phân công đầu tiên, tuy phân chia nam, nữ như hai giai cấp khác nhau mà cùng nhau xướng họa, để “loan sánh phụng” để “mình sánh ta” đúng theo mô thức Âm – Dương, khuynh hướng khác mà chí hướng chung, chung một nguồn sống.
Vậy ngày hội hễ mùa xuân của nông dân thường có một tinh thần thân ái, yêu sống lạc quan và đoàn kết tập thể. Chúng ta ai cũng nhớ rằng ngày Tết ở dân Việt sẵn có cái mỹ tục thuần phong kiêng tất cả điều xấu, như cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau, nói xấu gièm pha lẫn nhau, kiêng gắt gỏng, kiêng đòi nợ hay vay mượn. Những kẻ ngày thường rất thù oán đố kỵ nhau mà đến ngày Tết gặp nhau đều phải hỷ hả tha thứ cho nhau, giữ hòa khí vui vẻ với nhau để khỏi “xui”. “Giận đến chết, ngày Tết cũng vui”. Tục kiêng kỵ này có lẽ là dấu vết cộng đồng thân ái còn lại trong phong tục ngày xuân. Thuở xưa, thời cộng đồng nguyên thủy không phải chỉ có ngày Tết, đầu xuân người ta mới thân ái cộng đồng, mà suốt năm, hàng ngày các phần tử trong một đoàn thể đều phải có tinh thần đoàn kết cộng đồng vậy:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
![]() |
Lễ hội Đồng Kỵ |
Đấy là quan niệm cụ thể về thời gian và không gian, không biệt lập hẳn với những hành vi cụ thể. Người ta có thể ảnh hưởng vào thời gian và không gian bằng thay đổi sắc thái của những tượng trưng phù hiệu của chúng. Thời và phương không có ý nghĩa thời gian tự thâu hay không gian tự thâu. Thời là thời vận, là cơ hội thuận lợi hay không thuận lợi cho chủ trương nhất định. Phương có nghĩa là phương hướng của nhà địa lý phong thủy. Người ta tưởng tượng thời gian và không gian như một toàn thể những sự xếp đặt cụ thể và phức tạp như là những địa thế và vận hội, chính theo nghĩa ấy mà chúng ta phải hiểu câu thơ mở đầu của Phan Thanh Giản trước khi tuẫn tiết.
Trời thời, Đất lợi, lại Người hòa.
Lý do không phải cổ điển Đông phương không sớm biết hình học hay là lịch học đâu. Lý do là ở tại tư tưởng triết học, sự giới hạn vào một mớ hiểu biết về địa thế và vận hội để hành động. Nhờ sự hợp lý hóa cái mớ hiểu biết ấy mà các hiền triết Đông phương mong khám phá những nguyên tắc của một nghệ thuật tối cao. Cái nghệ thuật ấy bao hàm cả vật lý học lẫn luân lý học nhằm mục đích tổ chức tu sửa vũ trụ lẫn xã hội. Bởi vậy cho nên quan niệm thời gian và không gian ở Đông phương còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của hình thái xã hội. Đặc tính của thời gian trôi chảy tuần hoàn, cho nên tượng trưng bằng cái vòng tròn, đối xứng với không gian tượng trưng là hình vuông.
Trăm năm tính cuộc “Vuông” “Tròn”
Phải đo cho tới ngọn nguồn lạch sông.
(Kiều)
“Tròn” chữ Hán – Việt là Viên, “Vuông” chữ Hán – Việt là Phương, Thiên + viên, Địa phương, Trời tròn, Đất vuông, ấy là mô thức nguyên thủy trong quan niệm thời gian và không gian của Đông phương.
Thời gian có tính cách nhịp điệu cũng như không gian chia làm các khu cân đối. Người ta không thể quan niệm một trật tự, một hàng ngũ tế lễ hay “dương cơ”, một địa thế ưu đãi, một trật tự thời gian hay không gian nếu người ta không gán cho chúng một trọng tâm lấy làm điểm trục. Cho nên người ta chia ruộng đất theo kiểu chữ Tỉnh, gọi là Tỉnh điển, hay là người ta đắp nền nhà Minh đường đều lấy khu chính giữa làm trung tâm, cũng như một năm lấy tháng trung tâm ở giữa hai kỳ tế Xuân – Thu. Hội và Kỳ đều chỉ định vào thời gian, nhưng Kỳ có nghĩa là kỳ hạn, còn Hội có nghĩa là ngày hội hè. Thời gian ở đây có ý nghĩa là những thời kỳ có sự sum họp vui vầy theo nhịp điệu trong một năm, về mùa đông rét lạnh, nông nghiệp nghỉ ngơi, tập trung vào nơi trú ẩn, ấy là thời gian đông đặc, có giá trị cho cả một năm. Và ở chỗ nào có sự quây quần tụ họp của đoàn thể xã hội thì đấy là không gian có giá trị, “đất lành chim đậu” hay là Địa lợi. Cái nhịp điệu thời gian, không gian phỏng theo nhịp điệu của sự hoạt động xã hội nông nghiệp vậy.
Tóm lại, quan niệm không gian và thời gian của người Đông phương không chú trọng vào phương diện khu biệt những khái niệm trừu tượng, cho nên không phải là hai cái khung đồng dạng, đồng tính. Họ chia thời gian và không gian ra 5 qui mô chính dùng để xếp đặt những phù hiệu thuộc về cơ hội và cảnh vật. Quan niệm ấy đủ đem lại cho họ những cốt cách của một nghệ thuật hoàn bị toàn diện, một quan niệm nhất quán dùng để tu sửa vũ trụ và xã hội nông nghiệp thời phong kiến. Người Đông phương tránh sự nhìn nhận thời gian và không gian như là những lý niệm (concept rationel) độc lập, hay là hai cá tính biệt lập. Thời – không là một phức thể có hiệu nghiệm, xếp đặt một cách cụ thể. Sự xếp đặt một mớ những qui tắc ấy, không phải hỗn độn mà trái lại có điều lý, theo nguyên lý trật tự. Cái nguyên lý ấy với cái cảm tưởng về hiệu nghiệm của nhịp điệu là một vậy. Cái sức hiệu nghiệm của nhịp điệu điều tiết rất rõ rệt hiển nhiên trong phép tổ chức xã hội theo Lễ Nhạc, trong đó Lễ là lý, Nhạc là hòa, Lễ là trật tự trong lòng người. Tổ chức xã hội theo Lễ Nhạc tức là hợp cả ngoài và trong, vật chất và tinh thần có điều lý, có trật tự quân bình. Đấy là từ điều tiết nhịp điệu thời – không mà sức hiệu nghiệm đã ảnh hưởng vào tư tưởng vậy. Cái cảm tưởng về sức hiệu nghiệm ấy của vũ trụ tiết điệu, thời – không nhịp nhàng ấy là cơ bản của quan niệm Âm – Dương, mà ở trong Âm có Dương cũng như trong Dương có Âm vậy. Đấy là cái vũ trụ quan mà Nguyễn Công Trứ đã hình dung vào một câu thơ hết sức linh động:
Hồn hồn nhất đại khối,
Diểu diểu như nghị quần.
Nghĩa là:
Lững lững vô cùng một khối lớn,
Giằng giặc liên tục như đàn kiến.
Đấy là Vũ – trụ Thời – không Âm – Dương mà ngày Tết Việt Nam, trong tiềm thức của nhân dân nông nghiệp lấy làm ngày giờ linh thiêng bất khả xâm phạm để đánh dấu một năm mới, một khởi điểm cho cuộc đời mới, cho vận số mới vậy.
Nguồn: Xưa & Nay, số 301 – 302, 2/2008, tr 13