Việt Nam học hay thế giới nghiên cứu về Việt Nam như thế nào?
Việc nghiên cứu về Việt Nam hay còn gọi là Việt Nam học (VNH) có sức hấp dẫn và đã trở thành một môn học chính thức ở nhiều học viện, trường đại học, viện nghiên cứu khắp năm châu và là những đề tài vô cùng phong phú của các học giả nước ngoài.
Từ những phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau, từ những mối quan hệ của các tổ chức và cá nhân đối với đất nước và con người Việt Nam khác nhau nên các khuynh hướng VNH trên thế giới cũng đa dạng và muôn màu khác nhau.
- Về tổ chức, có Hội Việt Nam học châu Âu (EURO-VIET) là hội lớn nhất, được thành lập năm 1993 do TS. Stein Tonesson - một học giả người Na Uy khởi xướng.
Hội này định kỳ 2 năm một lần tổ chức hội thảo về Việt Nam, đến nay đã tổ chức được 5 hội thảo luân phiên ở Đan Mạch, Pháp, Hà Lan, Đức, Nga, mỗi lần có từ 400 đến 500 nhà khoa học trên thế giới tham gia.
Tiếp theo là Hội VNH ở Nhật Bản, thành lập năm 1990 với hơn 100 thành viên là những chuyên gia về Việt Nam, tiêu biểu như Yamamoto, Tshuboi, Sakurai, Momoki Shiro...
Sau Nhật Bản phải kể đến các tổ chức chuyên nghiên cứu về Việt Nam ở các trường đại học lớn trên thế giới như Trung tâm VNH ở Đại học Moskva (Liên bang Nga), Trung tâm Việt Nam ở Đại học Texas và Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á ở Đại học Los Angeles California (Hoa Kỳ), Viện Nghiên cứu Việt Nam ở Đại học Trịnh Châu (Trung Quốc), Khoa VNH tại Đại học Hankuk và Đại học Chungwon (Hàn Quốc).
- Ở cấp quốc gia, do mối quan hệ với Việt Nam và mối quan tâm tới Việt Nam khác nhau nên quy mô nghiên cứu, hướng nghiên cứu và cách tổ chức nghiên cứu về Việt Nam ở từng nước cũng khác nhau. Trước hết, phải kể đến những nước lớn là Pháp, Trung Quốc, Mỹ, Nga – nơi có ngành VNH phát triển từ nhiều năm nay.
Có thể nói, Pháp nghiên cứu VNH sớm nhất và có nhiều chuyên gia kỳ cựu, có một bề dày về tư liệu Việt Nam vào bậc nhất thế giới. Kế tục sự nghiệp của Viện Viễn Đông Bác Cổ trước đây, các nhà VNH ở Pháp nghiên cứu về sử học, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, dịch và công bố các tư liệu quý, các công trình biên khảo có giá trị về Việt Nam. Pháp hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam trong một chương trình đồ sộ nghiên cứu về đồng bằng Bắc Bộ.
Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp xúc với các nguồn tư liệu cổ của Việt Nam, cách nghiên cứu và tiếp cận với Việt Nam có quy mô lớn và chiều sâu không kém so với VNH của Pháp.
Hiện nay, Trung Quốc có tới 743.000 nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực, vượt Pháp, Đức, Nhật; trong đó có hàng trăm nhà VNH có nhiều công trình nghiên cứu phục vụ yêu cầu của Chính phủ Trung Quốc, nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời tăng cường dịch tài liệu, biên khảo tác phẩm cổ.
Các nhà VNH ở Mỹ chủ yếu tập trung nghiên cứu thời kỳ hiện đại. Trước khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, Mỹ được các nước coi là Trung tâm nghiên cứu Việt Nam lớn nhất với những trường đại học nổi tiếng về VNH như Cornell, Harvard, Columbia, Berkelly, Illinois, Yales và những chuyên gia VNH có tên tuổi như: John Whit More, A. Woodeside, Keith Taylor...
Sau năm 1975, sự quan tâm nghiên cứu về Việt Nam ở Mỹ có phần giảm xuống, nhiều nhà VNH người Mỹ đã đi ra nước ngoài. Nhưng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngành VNH ở Mỹ có xu hướng phục hồi trở lại.
Tại Trung tâm Việt Namở Đại học Texas, định kỳ hàng năm người ta tổ chức hội thảo về chiến tranh Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chính cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” cũng được giới thiệu tại diễn đàn này vào một ngày tháng 3/2005, để rồi nó trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay và là cuốn sách đang được dịch ra gần chục thứ tiếng khác nhau, giới thiệu với hàng triệu bạn đọc trên thế giới.
Đặc điểm nổi bật của ngành VNH ở Mỹ là tiềm lực tài chính rất lớn. Các dự án của chính phủ, của các trường đại học, của các quỹ, các hội đoàn đều được tài trợ một cách thỏa đáng. Có hai nguồn quỹ đã từ nhiều năm nay thường xuyên tài trợ cho các công trình VNH, đó là Ford Foundation và Reynold Foundation.
Tại Nga, ngành VNH phát triển mạnh thời kỳ 1954 - 1990, nhưng do dựa trên cơ sở bao cấp, nguồn tư liệu và mức chuyên sâu có thể chưa bằng một số nước phương Tây.
Khuynh hướng chính là nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về lịch sử, ngôn ngữ, văn học, kinh tế, chính trị Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo thống kê, hiện nay Nga có khoảng 400.000 nhà khoa học, nhưng vẫn thiếu vắng những nhà VNH nổi tiếng.
Ở Australia , một điều ngạc nhiên là VNH dường như có sự phát triển đột biến. Một mặt, do chính sách khuyến khích của chính phủ nước này nên có nhiều nhà VNH của nước khác, chủ yếu là Mỹ tìm đến.
Mặt khác, do Australiađang tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Namvà là nước có số lượng lớn người Việt định cư, nên việc nghiên cứu về Việt Nam còn là nhu cầu nhận thức quan trọng của một bộ phận dân cư. Ở Australiacó hai trung tâm nghiên cứu Việt Namlớn nhất được đặt tại Đại học Macquan ở Sidneyvà Đại học Anu ở Canberra .
Ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan đã hình thành một ngành VNH tương đối đặc sắc, trong đó có hai trung tâm lớn nhất là ở Stockhom, Thụy Điển và ở Copenhagen, Đan Mạch.
Họ đã tổ chức thành công nhiều hội thảo, hội nghị khoa học và nhiều cuộc tọa đàm về Việt Nam trong các lĩnh vực văn học, lịch sử, văn hóa, xã hội học, kinh tế xã hội.
Một số nước khác như Hàn Quốc, New Zealand, Thái Lan, Indonesia... nền VNH thường phát triển chủ yếu ở những trường đại học do các tập đoàn có đầu tư lớn tại Việt Nam tài trợ, họ chú trọng nghiên cứu ngôn ngữ và các vấn đề có thể phục vụ trực tiếp cho yêu cầu kinh doanh hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, thương mại và giao lưu văn hóa.
Các tổ chức quốc tế lớn như: IMF, WB, FAO, UNDP, UNIDO, UNICEP, UNESCO... cũng có nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam nhưng chủ yếu nhằm mục đích hiểu biết về Việt Nam để phục vụ nhu cầu công việc, theo yêu cầu chuyên môn.
Họ thu thập được nhiều số liệu, tư liệu qua các nguồn chính thức, công khai nhằm phục vụ hoạch định chính sách và biện pháp ở tầm vĩ mô. Những nghiên cứu của các tổ chức quốc tế đã góp phần làm cho các nước tăng cường hiểu biết Việt Nam và hợp tác giúp đỡ Việt Nam có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực.
Chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm gần đây, Việt Nam đã tổ chức thành công hai hội nghị quốc tế lớn về VNH, thu hút hàng ngàn nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia.
Hội thảo lần thứ nhất vào năm 1998 có 700 nhà khoa học, trong đó có 300 học giả đến từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hội thảo lần thứ hai vào năm 2004 có gần 500 nhà khoa học, trong đó có 123 học giả đến từ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ là đại diện của giới VNH trên toàn thế giới từ các nước có nền VNH phát triển hoặc đang phát triển như Pháp, Trung Quốc, Liên bang Nga, Mỹ, Hàn Quốc, Australia, Campuchia, Philippines, Italia, Đan Mạch, Hà Lan, Thái Lan, Indonesia, Iran, Đức, Singapore, Canada, New Zealand, Hungari...
Các học giả đã thống nhất ý kiến về việc thành lập Hội đồng VNH quốc tế với mục tiêu là liên kết, phối hợp các nhà VNH trên thế giới và đề nghị tổ chức Hội thảo quốc tế VNH lần thứ ba vào năm 2009 tại Đà Nẵng.