Về tên khoa học của cây “Hoàn ngọc đỏ”
Năm 2007, sinh viên N. T. P (Trường Đại học Dược Hà Nội) đã chọn cây này nghiên cứu để làm khóa luận tốt nghiệp Dược sĩ đại học với tiêu đề “ Nghiên cứu đặc điểm thực vật, đặc điểm giải phẫu và tác dụng kháng khuẩn của cây Xuân hoa”.
Do tên của mẫu vật nghiên cứu có liên quan đến Xuân hoa và Hoàn ngọctôi đã tìm đọc bản khóa luận đó và thấy cần phải kiểm tra lại việc xác định tên khoa học của cây này.
Sinh viên N. T. P đã mô tả đặc điểm thực vật của mẫu nghiên cứu như sau: “Cây bụi, cao 60 - 150cm, sống lâu năm. Thân non trơn nhẵn, màu vàng đỏ, có lông rất mịn khi còn non đôi khi khó phát hiện. Thân già hóa gỗ, bề mặt sần sùi màu nâu. Lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài khoảng 0,8 - 1 cm, phiến lá hình mũi mác, hai đầu thon nhọn dài 12 - 17 cm, rộng 2 - 3 cm, gân hình lông chim, gân phụ 5 - 6 cặp. Lá non có màu vàng đỏ, lá già màu xanh, mặt trên xanh đậm, mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa dạng bông, dài 3 - 4 cm, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, được phủ một lớp lông mịn. Hoa lưỡng tính, không đều, mỗi bông được bọc bởi một lá bắc riêng. Lá bắc màu xanh lục, kích thước 10 - 12 mm x 4 - 6mm. Đài 5, liền 1/3 phía dưới, kích thước mỗi đài 10 - 11 mm x 1 - 1,2mm. Tràng hợp, hình ống, màu tím nhạt; ống tràng hẹp dài khoảng 20 - 25mm, không đều, chia 5 thùy phía trên. Bộ nhị 4 gồm 2 dài, 2 ngắn, dài khoảng 11 - 14mm, chỉ nhị đính trên ống tràng; bao phấn đính lưng dài 2 - 3mm. Nhụy gồm vòi dài khoảng 18 - 20 mm, núm nhụy chia 2, hình mũi mác dài 2 - 3mm. Bầu trên, 2 ô đường kính khoảng 1 - 1,2mm.
Sau khi nhờ chuyên gia xác định tên khoa học và ý kiến của thầy hướng dẫn, tác giả khóa luận đã cho tên mẫu vật nghiên cứu (cây Hoàn ngọc đỏ) là Xuân hoa lá hoa, tên khoa học là Pseuderanthemum bracteatumImlay, thuộc họ Ô rô (Acanthaceae). Tiêu bản của cây này được lưu giữ tại Bộ môn Thực vật (Đại học Dược Hà Nội), số HNIP/15218/07.
Loài Pseuderanthemum bracteatumImlay đã được Phạm Hoàng Hộ mô tả trong bộ sách “ Cây cỏ Việt Nam” tập 3: 76 (1993) như sau: “Cỏ cao 50 - 60cm, ít phân nhánh; thân vàng đỏ, có 4 cạnh, có lông mịn lúc non. Lá có phiến thon, to 5 - 9 x 3 - 5cm, có lông mịn hai mặt, gân phụ 5 - 6 cặp; cuống dài 2 - 3 cm. Phát hoa cao 8 - 10cm; lá hoa như lá, to 2 x 0,7mm, có lông mịn; vành nhỏ, cao 1,5cm, thùy cao 6 - 7 mm, tiểu nhụy 2. Nang cao 2 cm, có lông mịn”. Trên hình vẽ minh họa cũng thấy rõ cuống lá cây này khá dài bằng 2/3 chiều ngang của lá; Hoa có hình dạng khác hẳn so với bản mô tả của N. T. P.
So sánh 2 bản mô tả loài P. brateatumcủa N. T. P và Phạm Hoàng Hộ chúng ta thấy có sự sai lệch về mặt phân loại. Mẫu cây Hoàn ngọc đỏ mà N. T. P đã mô tả không phải là Xuân hoa lá hoa ( Pseuderanthemum bracteatumImlay) như đã xác định.
Việc mô tả của N. T. P dựa trên tiêu bản số HNIP/15218/07 cũng không thật chính xác, cần phải đính chính lại.
Theo khóa xác định tên loài của Phạm Hoàng Hộ thì cây Hoàn ngọc đỏ có tên khoa học là Hemigraphis glaucescensC. B. Clarke, họ Acanthaceae, tên Việt Nam là “ Bán tự mốc” đúng như Võ Văn Chi đã xác định vào cuối năm 2006.
Sau đây là đặc điểm của cây Bán tự mốc (tên khác của Hoàn ngọc đỏ):
Tên khoa học: Hemigraphis glaucescens C.B. Clarke, họ Acanthaceae.
Cây bụi nhỏ, cao đến 1m hoặc hơn, sống nhiều năm; thân và cành mảnh, nhẵn đường kính phần gốc thân khoảng 7 - 10 mm, đường kính cành khoảng 2 - 4 mm, thân non hơi vuông, có màu tía, đốt dài 6 - 8cm, các mấu hơi phìng to. Lá nguyên nhẵn, mọc đối, mặt trên lá màu lục thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt, phiến lá hình thoi hẹp, dài 7 - 12 cm, rộng 1,5 - 2,5cm, có 6 - 7 đôi gân bên nổi rõ ở mặt dưới; mép lá không có răng. Cuống lá ngắn khoảng 2 - 4mm và không rõ, do gốc phiến lá men xuống gần sát mấu. Các lá non ở ngọn có màu tía. Cụm hoa dạng bông dài 2 - 3cm, ở đầu cành; Lá bắc màu xanh lục, kích thước 10 - 12mm x 4 - 6mm, xếp kết hợp theo 4 hàng, mặt trên và mép lá bắc có lông; Lá bắc con (tiền diệp) nhỏ. Lá đài hẹp, dài 1 cm, dính liền 1/3 phía dưới. Tràng hợp, hình ống, màu tím nhạt; ống tràng hẹp dài khoảng 2 - 2,5cm, phía trên chia 5 thùy ngắn gần bằng nhau. Bộ nhị gồm 2 dài, 2 ngắn, dài khoảng 11 - 14mm, chỉ nhị có lông, đính trên ống tràng; bao phấn đính lưng dài 2 - 3mm. Bộ nhụy có vòi dài khoảng 1,8 - 2cm, núm nhụy chia 2, hình mũi mác dài 2 - 3mm. Bầu trên, 2 ô đường kính khoảng 1 - 1,2 mm. Chưa thấy quả và hạt.
Cây Bán tự mốc mọc hoang và được trồng nhiều nơi ở nước ta, từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng đến miền núi. Chi Hemigraphis ở Việt Nam có 8 loài, một số loài trong chi này còn phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Myamar, Malaysia và Indonesia…