Văn hóa Việt Nam trong quá trình tái cấu trúc xã hội sau Cách mạng Tháng Tám
Cho nên sau sự kiện lớn lao mang ý nghĩa kết quả của cả một tiến trình hàng ngàn năm trong đó con người Việt Nam liên tiếp mở rộng không gian xã hội của mình thông qua các hệ thống Đông Nam Á, Đông Á rồi phương Tây đồng thời là một bước tiến của lịch sử Việt Nam này, văn hóa Việt Nam cũng bước vào một giai đoạn phát triển mới trong đó tiền đề chủ yếu là những thay đổi trong thiết chế, tổ chức và quan hệ của xã hội Việt Nam, những thay đổi mang tính chất một quá trình tái cấu trúc xã hội gian nan suốt sáu mươi năm qua vẫn chưa hoàn tất.
Ngay sau ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong phiên họp Chính phủ ngày 3. 9. 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất sáu vấn đề là chống đói, chống nạn dốt, xây dựng Hiến pháp mới, xóa bỏ các hủ tục và tệ nạn xã hội, xóa bỏ thuế thân, thực hiện tự do tín ngưỡng... trong đó ngoại trừ việc chống đói, năm vấn đề còn lại đều hướng tới xây dựng một xã hội theo mô hình dân chủ pháp quyền hiện đại kiểu phương Tây. Cần nói thêm là từ Chương trình Việt Minh 1941 rồi Đề cương văn hóa Việt Nam 1943, những người cộng sản Việt Nam cũng đã dự kiến về một xã hội hoàn toàn khác trước. Nhưng bước vào xã hội hiện đại sau 1945, con người Việt Nam chỉ được lịch sử dành cho một con đường quá hẹp, nên đến 1975 quá trình tái cấu trúc xã hội ở đây đã diễn ra một cách phiến diện về nội dung, nửa vời về tính chất, bất ổn về nhịp điệu và phân tán về không gian. Bị hút vào cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập kéo dài đến 1975, quá trình này dần dần đi lệch khỏi quỹ đạo lẽ ra phải có. Sự thay đổi về cấu trúc và chức năng của các tổ chức và yếu tố xã hội ở đây bị khuôn nắn trong điều kiện thời chiến, nên sự phát triển văn hóa ở Việt Nam trước 1975 trong thực tế chỉ phản ảnh sự thay thế và xung đột giữa các mô hình xã hội phục vụ chiến tranh. Và nếu thừa nhận một trong những nội dung đã làm nên tính chất khốc liệt của các cuộc đấu tranh xã hội trong thế kỷ XX là đấu tranh ý thức hệ, thì cần nói thêm rằng nội dung ấy cũng trình hiện một cách đậm nét trong cuộc đấu tranh giữa các mô hình xã hội ở Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. Việc lập lại hòa bình tạm thời năm 1954 do đó không đưa tới điều gì khả quan hơn, vì sau hiệp định Genève tuy quá trình tái cấu trúc xã hội ở Việt Nam bị chia thành hai khu vực có nội dung và tính chất khác nhau song chính quyền ở hai miền đều hướng tới xây dựng những xã hội phi dân sự. Phải nói rằng công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên địa bàn miền Bắc thực sự gắn liền với việc tổ chức một xã hội mới, nhưng những hạn chế trong quan niệm đấu tranh giai cấp đương thời đã dẫn tới nhiều sai lầm đáng tiếc mà nổi bật là trong cải cách ruộng đất, và kết quả là chúng ta đã đi tới một xã hội phân loại công dân. Cần nhắc lại rằng tất cả các quốc gia xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX đều không hình thành theo đúng quy luật của sự phát triển phương thức sản xuất như K. Marx đã nêu ra, mà đều bắt đầu từ chỗ khẳng định thượng tầng kiến trúc rồi mới xây dựng hạ tầng cơ sở. Vai trò chủ đạo của hệ thống chính trị ở đây dẫn tới một kết quả tất yếu là chính trị hóa quá trình tái cấu trúc xã hội, nên văn hóa Việt Nam từ chỗ phục vụ cách mạng cũng sa đà vào việc phục vụ chính trị mà đặc trưng là hướng tới các mục tiêu gần, tình hình này trình hiện cả trên phương diện kế thừa truyền thống. Nền sản xuất xã hội nào cũng luôn có mối ràng buộc chặt chẽ và toàn diện với truyền thống, nên khi tách rời nền sản xuất ấy thì người ta sẽ tách rời truyền thống. Quá trình tái cấu trúc xã hội trong hoàn cảnh chiến tranh mà đặc biệt là thời gian 1960 – 1975 đã khiến con người Việt Nam ít nhiều tách rời nền sản xuất của mình, đã tiêu dùng những cái không phải do mình sản xuất ra, nên cũng chỉ kế thừa được truyền thống một cách phiến diện và có mức độ. Sau khi Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 quyết định tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam thì Phan Thanh Giản chủ hòa bị kết án, Phan Châu Trinh chủ trương bất bạo động bị phê phán. Trong một thời gian dài sau cải cách ruộng đất vô số cổ vật bị coi như tàn dư của văn hóa phong kiến đã trở thành sở hữu của các nhà sưu tập Đông Âu. Kiểu thức tái cấu trúc xã hội hướng tới các mục tiêu gần như vậy tạo ra sức mạnh cấp kỳ nhưng lại hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn vì không toàn diện đủ để tạo ra những tiềm năng văn hóa mới, nên giống như một thừa trừ của lịch sử, sức mạnh đã làm nên đại thắng 1975 lại trở thành gánh nặng đối với văn hóa Việt Nam cho đến 1985. Hình thành từ 1945 và bắt đầu định hình từ 1954, đến 1975 hệ thống chính trị Việt Nam mà hạt nhân là Đảng Cộng sản đã thu thập được rất nhiều kinh nghiệm đấu tranh chính trị, bảo vệ Tổ quốc nhưng lại chưa có thật nhiều kiến thức trong việc phát triển kinh tế, tổ chức xã hội, xây dựng văn hóa, mặt khác vì luôn phải xử lý những mâu thuẫn đối kháng, hệ thống này có một thái độ rất cứng rắn về ý thức hệ. Mô hình kinh tế bao cấp thời chiến và thiết chế xã hội phân loại công dân được nhân rộng ra trên địa bàn phía nam vĩ tuyến 17, gây ra những bất đồng sâu sắc về nhận thức và tâm lý trong nội bộ dân tộc. Ở các thành phố lớn, người dân sinh hoạt như trong trại lính, với sự kiểm soát chặt chẽ về hộ khẩu kèm theo việc cấp phát tủn mủn về cái ăn. Quá trình tái cấu trúc xã hội ở đây do đó càng tách rời các mục tiêu xã hội. Cho nên mặc dù có được một nguồn lực quan trọng là quán tính thời chiến, nền văn hóa mới của nước Việt Nam độc lập và thống nhất sau 1975 vẫn bị hạn chế trên nhiều phương diện. Chiến tranh ở biên giới tây nam rồi biên giới phía bắc lại tạo ra áp lực chính trị nặng nề đối với sinh hoạt xã hội, dẫn tới sự định hình hệ thống chuẩn mực văn hóa chính thống thiên về các chế định chính trị – tư tưởng. Sự thiếu thốn về kinh tế khiến nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhiều tầng lớp nhân dân rất nghèo nàn đồng thời mang tính chất thụ động. Thị trường văn hóa ở miền Nam trước đó cũng gần như hoàn toàn bị hủy diệt để thay thế bằng một cơ chế tự túc và cấp phát văn hóa không theo luật cung cầu. Văn hóa Việt Nam sau 1975 do đó đã bộc lộ những điểm yếu rõ rệt. Không có được cơ sở xã hội thực sự và nền tảng kinh tế cần thiết, nền văn hóa mới ở Việt Nam thời gian 1975 – 1985 bị hạn chế rất lớn về khả năng phát triển đồng thời trình hiện tính chất mâu thuẫn trong một phương thức tồn tại không kích thích sức sáng tạo. Tình hình này đã từng bước thay đổi từ khi Việt Nam bước qua thời mở cửa và hội nhập từ 1986 đến nay.
![]() |
Sau ba mươi năm giành được độc lập Việt Nam mới chấm dứt được chiến tranh, và sau ba mươi năm chấm dứt được chiến tranh Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi địa vị một quốc gia đói nghèo lạc hậu. Hoàn cảnh lịch sử ấy khiến cho trong thời gian từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, văn hóa Việt Nam chưa bao giờ phát huy được một cách toàn diện và toàn bộ sức mạnh của nó trong việc thúc đẩy cũng như điều chỉnh quá trình tái cấu trúc xã hội trong đất nước. Nhưng nếu sức mạnh làm người ta tin tưởng thì điểm yếu lại giúp người ta tỉnh táo, và trong ý nghĩa này, việc nhận chân những điểm yếu ấy có thể góp phần tích cực vào việc kích hoạt những sức mạnh tiềm tàng đã tích tụ qua hàng ngàn năm trong văn hóa Việt Nam .
Là một yếu tố vừa góp phần thực hiện vừa góp phần phản ảnh quá trình tái cấu trúc xã hội suốt sáu mươi năm qua, văn hóa Việt Nam mang trong cơ cấu phát triển của nó nhiều tiềm năng xã hội cũng như khát vọng chính trị. Những tiềm năng ấy có được khơi dậy một cách có hiệu quả không, những khát vọng ấy có được thể hiện một cách có trách nhiệm không tùy thuộc rất nhiều vào hệ thống chính trị. Sự ngạo mạn ý thức hệ và thói cực đoan đạo đức luận như trước đây chỉ dẫn tới những sai lầm đáng tiếc, bởi vì như người ta đã thấy, quá trình tái cấu trúc này phải đặt nền móng toàn diện và lâu dài cho sự phát triển của một Việt Nam độc lập, hòa bình và thịnh vượng, cho nên để trở thành cái trục đồng quy, cái nền liên kết có thể quy tụ tất cả các lực lượng xã hội trong đất nước tham gia quá trình ấy, hệ thống chính trị phải tự thể hiện mình trước hết như hạt nhân pháp lý và đạo đức của một xã hội ngăn chặn được nguy cơ phân loại công dân.