Vấn đề mở mang cương vực về phương Nam
Song có lẽ đây là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm, nên ít được nhắc đến. Tuy nhiên, dù chúng ta có tránh né, nó vẫn là một hiện thực, một khách quan lịch sử không thể chối bỏ được, nhất là lịch sử mở mang vùng đất Nam bộ. Sự tránh né này đôi khi còn kéo theo hệ lụy không tốt, hơn là chúng ta đề cập nó dưới ánh sáng của khoa học lịch sử, tức là chúng ta phải tiếp nhận lịch sử như nó vốn có chứ không phải như chúng ta muốn (1).
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi tức vua Lê Đại Hành (980 – 1005), sợ Chiêm Thành lợi dụng lúc triều chính ta chưa ổn định đem quân gây hấn, nên vua Lê sai hai sứ giả sang Chiêm giao hảo, nhưng bị vua Chiêm bắt giam. Ngay sau đó (981), nhà Tống (960 – 1127) xua quân xâm lược nước ta, nhưng bị đánh trả thảm bại. Năm sau, để trả đũa hành động thô bạo bắt giam sứ giả ta, quân ta tiến vào thủ đô Chiêm, Indrapura (nay thuộc làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam ). Vua Chiêm thua chạy, phải dời đô xuống Phật Thệ (Vijaya, ở Bình Định). Từ đó, hàng năm vua Chiêm phải triều cống nước ta. Năm 1062, vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman IV: 1061 – 1069) lại liên minh quân sự với nhà Tống âm mưu xâm chiếm nước ta. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông ra tay trước, cùng với Lý Thường Kiệt mang đại quân tiến vào Phật Thệ bắt được Chế Củ đưa về Thăng Long. Để được an toàn trở về nước tiếp tục làm vua, Chế Củ dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho người Việt (tức vùng đất từ đèo Ngang đến sông Thạch Hãn, gồm tỉnh Quảng Trị và một phần tỉnh Quảng Bình). Có thể nói lịch sử Nam tiến của người Việt bắt đầu từ triều đại Lê Đại Hành.
Năm 1301, dưới thời nhà Trần, vua Chiêm là Chế Mân (Jaya Simhavarman IV: 1287 – 1307) dâng vàng bạc và hai châu Ô và châu Lý làm sinh lễ xin cưới Huyền Trân công chúa. Nhà Trần đổi châu Ô trở thành châu Thuận và châu Lý trở thành châu Hóa (tức vùng Thừa Thiên – Huế ngày nay). Cuối đời nhà Trần, lợi dụng lúc triều đại này suy yếu, tướng Chiêm là Chế Bồng Nga thường xuyên mang quân sang xâm phạm biên cương và cướp phá kinh đô Thăng Long của ta.
Sau khi lên ngôi, năm 1402, Hồ Quý Ly sai đại tướng Đỗ Mãn mang quân trừng phạt Chiêm Thành, vua Chiêm là Ba Đích (Bhadravarman V: 1401 – 1441) chống không lại, dâng hai châu Chiêm Đỗng (Động) và Cỗ Lũy để xin hàng. Hai châu này trở thành bốn phủ: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa (tức hai tỉnh Quảng Nam , Quảng Ngãi ngày nay). Lợi dụng cơ hội nhà Minh xâm lược nước ta (1407), người Chiêm chiếm lại hai châu này. Từ đó, họ thường xuyên dùng địa bàn làm bàn đạp xâm lược nước ta.
Năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn (1460 – 1471) mang hơn một vạn thủy binh ra đánh cướp Hóa Châu (Huế). Vua Lê Thánh Tông tức giận mang 26 vạn quân cùng 500 chiến thuyền kéo vào, bao vây kinh đô Phật Thệ, bắt sống Trà Toàn. Để đổi lấy mạng sống, Trà Toàn xin trả lại Chiêm Đỗng, Cổ Lũy và dâng thêm phần đất kéo dài đến mũi Nạy. Phần đất từ đèo Hải Vân đến mũi Nạy được vua Lê Thánh Tông lập thành đạo Quảng Nam . Dãy núi phía nam mũi Nạy được dùng làm biên giới với phần đất còn lại của Chiêm Thành. Vua Lê Thánh Tông chia Chiêm Thành thành ba nước nhỏ: Nam Bàn (Phan), Hóa Anh và Chiêm Thành.
Tương truyền trên núi, vua Lê có cho cắm một tấm bia, trong đó có câu: “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong”. Nên từ đó núi có tên là Thạch Bi.
Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) cho sáp nhập phần đất từ mũi Nạy đến sông Phan Rang lập thành dinh Thái Khang. Đến năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) cho sáp nhập phần đất còn lại của Chiêm thành từ sông Phan Rang đến mũi Ba Kê (biên giới Chân Lạp) làm phủ Thuận Thành, năm 1697 đổi thành phủ Bình Thuận.
Trước khi ranh giới nước ta tiến đến tận mũi Ba Kê, biên giới Chân Lạp, thì lưu dân người Việt đã vào sinh sống ở vùng Mỗi Xuy / Mô Xoài, Prey-Nokor / Sài Gòn… từ lâu. Điều đó cho thấy công cuộc Namtiến trên đất Nam bộ diễn ra không giống như trong quá khứ.
Các giai đoạn Namtiến trên đất Nam bộ
Vùng đất Nambộ ngày nay nguyên là một phần lãnh thổ của vương quốc Phù Nam . Thời cực thịnh của vương quốc Phù Nam (I-VI), lãnh thổ rất rộng, bao gồm cả vùng tây nam bán đảo An Trung, với nhiều tiểu quốc, giao thương rộng rãi với Ấn Độ, Trung Quốc, La Mã, Ả Rập… qua cảng thị Óc Eo (2). Khi vua Rudravarman (514 – 539) qua đời, Phù Nam rơi vào tình cảnh nội biến, các thuộc quốc nổi lên giành quyền tự chủ. Trong đó, bộ tộc Khơmer mạnh hơn hết, năm 550, một nhà quý tộc Khơmer đánh bại các tiểu quốc khác, thành lập nhà nước Campuchia (người Trung Quốc gọi là Chân Lạp), lên ngôi lấy hiệu là Bhavavarman (550 – 600), lãnh thổ bao gồm phía Bắc lưu vực sông Mêkông, Mênam và Salwen (tức vùng núi Hạ Lào, tiếp giáp Lào Thái, phía bắc Biển Hồ (3) và chiếm luôn vùng châu thổ hạ lưu sông Mêkông của Phù Nam. Đến thế kỷ thứ VIII, vương quốc Chân Lạp chia thành hai miền Campuchia Thượng (Lục Chân Lạp) và Campuchia Hạ (Thủy Chân Lạp) (4). Cuối thế kỷ VII, Chân Lạp bị phân tán thành nhiều tiểu quốc, rồi bị người Java chiếm đóng cùng lúc với Chiêm Thành. Đến đầu thế kỷ thứ IX, Chân Lạp mới thoát khỏi sự thống trị của Java rồi bước vào thời Angkorcực thịnh, kéo dài đến thế kỷ XIII. Một điều đáng lưu ý là từ trước Công nguyên đến thế kỷ XIII, vùng Thủy Chân Lạp thường xuyên diễn ra hiện tượng biển tiến – biển thoái (5), nên con người chỉ cư ngụ trên các giồng, gò cao, còn đại bộ phận đều ngập nước, hoang vắng, như Châu Đạt Quan mô tả (6).
Các bộ tộc Lào, Shan (Thay / Siam / Xiêm) sau khi hình thành vương quốc Ayuthia (gọi là Xiêm La hay Xiêm (Tiêm), tức Thái Lan sau này (7)), có tham vọng tiến sang phía đông. Từ năm 1351, đến 1431, nhiều lần quân xiêm đánh chiếm Angkorvơ vét của cải mang về nước, tàn phá các công trình thủy lợi ở Chân Lạp. Năm 1434, người Khơmer phải dời đô về Nam Vang. Nội bộ hoàng gia Campuchia thường xuyên chia rẽ tranh giành ngôi báu là điều kiện thuận lợi để người Xiêm can thiệp vào việc triều chính và gặm nhấm dần đất đai của Chân Lạp.
Năm 1618, sau một thời gian bị bắt làm con tin ở Xiêm, Thái tử Chey Chetta về nước kế vị vua cha, xưng là Chey Chetta II (1618 – 1628). Là người có tinh thần dân tộc, tự chủ rất cao, muốn thoát khỏi sự khống chế của Xiêm. Sau khi lên ngôi, ông dời kinh đô về U đông, cách Nam Vang 35 km về phía tây bắc, khôi phục lại triều đình Campuchia, tìm cách dựa vào thế lực Đàng Trong của chúa Nguyễn làm đối lực chống lại Xiêm La. Ông xin cưới công nương Ngọc Vạn, con gái của chúa Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên (1613 – 1635). Vì quyền lợi lâu dài của đất nước và dân tộc, năm 1620, chúa Sãi đồng ý mà không đòi hỏi bất cứ điều gì về đất đai như vua Trần trước đây.
Năm 1623, đáp lời cầu xin của Chey Chetta II, chúa Sãi cho quân sang giúp, đánh bại cuộc xâm lược của quân Xiêm. Sau đó, chúa Sãi cử sứ giả sang xin “mượn” đất Prey Nokor (tức Sài Côn / Sài Gòn) để lập trạm thuế thương chánh. Qua công nương Ngọc Vạn, bấy giờ là hoàng hậu Chân Lạp, chúa Sãi yêu cầu cho người Việt được tự do vào khai khẩn, kinh doanh ở Prey Nokor. Từ đó, người Việt vào lập nghiệp, làm ăn ở Mỗi Xuy / Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa), Prey Nokor… ngày một đông. Theo yêu cầu của chàng rể (Chey Chetta II), chúa Nguyễn thường xuyên viện trợ quân đội, vũ khí, “chuyên gia”… sang giúp. Tại U đông, người Việt mở nhiều hiệu buôn, xưởng cơ khí… nắm nhiều địa vị then chốt trong triều đình Chân Lạp.
Năm 1628, Chey Betta II băng hà, triều đình Chân Lạp chia làm hai phe: thân Việt và thân Xiêm, tàn sát lẫn nhau giành ngôi báu. Chúa Nguyễn qua Hoàng thái hậu Ngọc Vạn, tìn cách đưa các hoàng thân Việt lên ngôi. Các vua Chân Lạp này phải xưng thần nộp cống cho chúa Nguyễn và cho người Việt tiếp tục vào phương Nam khai mở làm ăn.
Năm 1679, đám di thần phản Thanh phục Minh, gồm 3.000 người do hai tướng Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch cầm đầu đến xin tỵ nạn, được chúa Hiền vương Nguyễn Phước Thuần (1648 – 1687) chấp nhận, cho nhóm Dương Ngạn Địch định cư ở xứ Mỹ Tho, còn Trần Thượng Xuyên đến định cư ở Bàn Lân thuộc xứ Đồng Nai. Ở Biên Hòa, Trần Thượng Xuyên tập trung người Hoa thành lập Đại phố châu (tức Cù lao Phố) ở giữa sông Đồng Nai, thu hút người Âu, người Nhật, người Mã Lai… đến buôn bán kinh doanh ngày một phồn thịnh, trở thành một trung tâm trao đổi mua bán lớn ở Nam bộ cho đến ngày Tây Sơn vào. Còn ở Mỹ Tho, họ tỏa ra nhiều nơi ra sức phá rừng làm ruộng, cất phố, lập chợ thu hút nhiều người Việt, người Khơmer, Đồ Bà (Java)… đến kinh doanh, mua bán hình thành Mỹ Tho đại phố.
Nguyễn Hữu Cảnh thành lập Gia Định phủ
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), vâng lệnh chúa Nguyễn, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, xác định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mới, lập ra hai huyện Phước Long và Tân Bình, cho thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, gọi chung là Gia Định phủ, trên phần đất từ sông Đồng Nai đến sông Tiền (còn hai vùng Tân An và Gò Công chưa nội thuộc chủ quyền người Việt). Như vậy, dinh Trấn Biên gồm các tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước và dinh Phiên Trấn bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Ninh, Long An, Tiền Giang và phần đất phía bắc sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp ngày nay.
Động thái của Nguyễn Hữu Cảnh đồng nghĩa với việc xác lập chủ quyền người Việt trên vùng đất Thủy Chân Lạp, vùng đất chỉ thuộc chủ quyền của người Chân Lạp trên danh nghĩa. Mới hơn 70 năm, tính từ thời điểm cuộc hôn nhân Chey Chetta II – Ngọc Vạn (1620 – 1698), mặc dù chủ quyền chính thức người Việt được xác định chỉ đến bên bờ tả ngạn sông Tiền, nhưng bước chân khai phá của người Việt đã vượt qua sông Tiền, sông Hậu đến cả Cà Mau, Hà Tiên. Điều này càng khẳng định xu thế phát triển về phương Nam của người Việt trong lịch sử.
Mạc Cửu khai phá và chiếm lĩnh đất Hà Tiên
Mạc Cửu, người Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), nguyên là một chủ thuyền buôn, thường đi lại buôn bán trong vùng biển Đông Nam Á, có quan hệ mật thiết với Trịnh Thành Công ở Đài Loan trong việc khuyếch trương mậu dịch Đài Loan với hải ngoại (8). Vào khoảng năm Khang Hy thứ XIX (1680), khi thấy con đường phục Minh gần như bế tắc. Mạc Cửu không chịu cạo tóc gióc bím theo nhà Thanh, bỏ sang Chân Lạp sinh sống, được phong chức Ốc Nha. Song, nội tình nước này luôn rối ren vì nạn tranh giành ngôi vua và thường bị người Xiêm khống chế. Nên Mạc Cửu xin tới cửa biển Péam (tức Phương Thành và Hà Tiên sau này) thuộc phủ Sài Mạt (Cheal Meas) nơi có người các nước Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà… tụ tập buôn bán, mở sòng bạc thu thuế (lấy xâu), chung quanh còn có lưu dân người Việt khai hoang mở ruộng lập vườn. Mạc Cửu mở sòng bạc, cất phố cho thuê, xây thành trên bờ biển. Ông lại chiêu mộ người Việt nam phiêu lưu ở Phú Quốc, Luống Cày (Lũng Kỳ), Cần Bột (Kampot), Rạch Giá, Vũng Thơm (Hương Úc, Kompong Som), Cà Mau thành lập được bảy thôn.
Khoảng năm 1678 – 1688, bọn cướp biển và quân Xiêm thường cướp phá Hà Tiên, Mạc Cửu bị bắt ép về ở cảng Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn) (9), một thời gian sau ông lẻn đi lập nghiệp ở Lũng Kỳ, nhưng đất này chật hẹp, khó phát triển lên được, nên ông về lại Hà Tiên khoảng năm 1700, tiếp tục công việc đang dang dở. Hà Tiên từ đó ngày một thịnh vượng.
Từ sau khi lập phủ Gia Định (1689), thế lực của chúa Nguyễn trên Thủy Chân Lạp ngày một phát triển mạnh. Còn Chân Lạp đang suy yếu nội tình luôn mất đoàn kết vì nạn tranh giành ngai vàng; người Xiêm thì trông chờ cơ hội để chen vào chan thiệp. Vì tương lai của Hà Tiên, Mạc Cửu dâng biểu xin cho Hà Tiên nội thuộc Đàng Trong năm 1708.
Quốc chúa Nguyễn Phước Chu bằng lòng cho Hà Tiên làm thuộc quốc và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên (10), và ban cho tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu xây dựng doanh trại đồn trú tại Phương Thành (Hà Tiên), chiêu mộ dân lưu tán tiếp tục khai hoang, mở cửa đón tiếp thương nhân nước ngoài vào kinh doanh buôn bán… Đến năm 1735, ông qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được Quốc chúa cho kế tập. Mạc Thiên Tứ tiếp tục mở mang trấn Hà Tiên, đến năm 1739 lập thêm bốn đạo: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (phía bắc Bạc Liêu). Họ Mạc cùng lưu dân người Việt, người Hoa mở rộng đất Hà Tiên từ mũi Cà Mau - vịnh Xiêm La ngược lên đến bờ sông Hậu.
Như vậy, đến thời điểm này, chỉ còn vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu là chưa nội thuộc chủ quyền người Việt, nhưng trong thực tế lưu dân người Việt đã khai mở vùng đất này từ lâu, chỉ chờ việc xác lập chủ quyền mà thôi.
Người Việt tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long
Năm 1730, người Chân Lạp nổi dậy giết người Việt ở Ba Nam rồi tràn xuống cướp phá Phiên Trấn (tức Sài Gòn), chúa Ninh Vương Nguyễn Phước Thụ (1725 – 1738) sai Thống suất Trương Phước Vĩnh điều binh đi đánh dẹp đến tận Phnom Pênh. Quốc vương Sotha II (1722 – 1736) sợ, bỏ chạy. Năm sau, ông xin dâng hai xứ Mésa (sau trở thành Mỹ Tho) và Longhor (sau trở thành Vĩnh Long) cho chúa Nguyễn để chuộc tội và được trở lại ngai vàng.
Đến năm 1755, dưới triều chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1738 – 1765) quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên (1755 – 1757) hiếp đáp người Côn Man (người Chăm trên đất Chân Lạp) và xâm phạm biên giới, chúa Võ nương liền phái Khâm sai Cai đội Trương Phước Du cùng Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh mang quân tiến đánh phủ Cầu Nam và Phnom Pênh. Nặc Nguyên thua, chạy sang Hà Tiên, nhờ Mạc Thiên Tứ xin hộ với chúa Nguyễn, hiến hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) và nộp bổ sung lệ triều cống đã bỏ ba năm trước để xin chuộc tội. Chúa Nguyễn nhận lời và cho đưa Nặc Nguyên về nước (1756).
Năm Đinh Sửu (1757) Nặc Nguyên mất, chú họ Nặc Nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thắc gồm Sóc Trăng – Bạc Liêu) và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang gồm Trà Vinh – Bến Tre) cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận.
Nhưng liền sau đó Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc Nhuận là Nặc Tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc Hinh và đưa Nặc Tôn về nước. Nặc Tôn được phong làm Phiên vương.
Để tạ ơn, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong (tức vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu về phía bắc) dâng cho chúa Nguyễn. Đây là vùng đất nội thuộc chủ quyền người Việt sau cùng trên đường Nam tiến, và được Nguyễn Cư Trinh lập thành ba đạo:
- Châu Đốc đạo bao gồm phần đất phía tây bắc sông Hậu.
- Tân Châu đạo bao gồm phần đất của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay.
- Đồng Khẩu đạo bao gồm các huyện Châu Thành, thị xã Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày nay.
Tiếp thu vùng đất Srok Treang, Préah Trapeang và Tầm Phong Long vào năm 1757 là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương Nam, vừa đánh dấu kết thúc tiến trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982 – 1757), bắt đầu khi vua Lê Đại Hành tiến quân vào kinh đô Indrapura của Chiêm Thành.
Sự kiện này chẳng những khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất hoang vắng suốt mấy trăm năm, mà còn góp phần ngăn chặn tham vọng “Đông tiến” của người Xiêm; đập tan âm mưu khuynh đảo, cát cứ của đám người Hoa lưu vong; góp phần xác định biên giới quốc gia của một số nước và ổn định an ninh khu vực Đông Nam Á trong thế kỷ XVIII, làm cơ sở thực tế để xây dựng các văn bản pháp lý cho quốc tế công pháp trong khu vực sau này.
Lịch sử mở mang bờ cõi về phương Namchiếm một vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử của chúng ta, nó vừa là một hiện thực lịch sử khách quan không thể đảo ngược, vừa góp phần khẳng định bản lĩnh văn hóa và sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam . Vấn đề này đã đến lúc, chẳng những phải được nghiên cứu tường tận, mà còn phải được công khai phổ biến rộng rãi.
___________
1. Cao Tự Thanh, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Xưa & Naysố 284 / tháng 5 – 2007.
2. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong(1558 – 1777), Sài Gòn, 1969, tr. 394.
3. Lê Hương, Sử Cao Miên, Sài Gòn, 1969, tr. 70.
4. Mã Đoan Lâm, Văn hiến thông khảo, q. 332, tứ duệ khảo, tờ 9. Dẫn lại Lược sử Nam bộ, Hội KHLSVN, Nxb Thế giới năm 2006, tr. 23.
5. Võ Sĩ Khải, Tham luận tại hội thảo khoa học “ Lịch sử vùng đất Nam bộ đến cuối thế kỷ XIX”.
6. Châu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ ký, Bản dịch Lê Hương. S. 1973, tr. 22 – 23 và 80.
7. Theo Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam .
8. Trần Kinh Hòa, Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên, Tạp chí Văn hóa Á châu, số 7, năm 1958.
9. Trần Kinh Hòa, sđd.
10. Quốc sử quán: Đại Nam thực lục tiền biên, Bản dịch Viện sử học, Hà Nội, 1960, tr. 167.