Vấn đề dòng họ ở xứ Nghệ nhìn từ góc độ văn hóa
Đứng về mặt văn hóa mà nói, cũng như các dòng họ lớn của các địa phương trên toàn quốc, các dòng họ lớn xứ Nghệ đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của quê hương.
Nếu nói rằng, từ thời phong kiến xa xưa, làng xã đã trở thành đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng cũng khá vững bền, tạo nên bản sắc văn hóa làng rồi làng văn hóa… thì cũng có thể nói đến văn hóa dòng họ mặc dầu chưa bao giờ dòng họ được coi là đơn vị hành chính. Bởi vì nhiều làng xưa kia chỉ là nơi tụ cư của một hoặc vài ba dòng họ như họ Hồ ở Quỳnh Lưu, họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương, họ Đinh Nho, họ Tống, Trần, họ Nguyễn Khắc ở làng Gôi Vị, họ Nguyễn Tiên Điền, họ Nguyễn Huy ở Trường Lộc… Thậm chí, nhiều dòng họ còn xuất hiện trước khi làng xã trở thành một thiết chế trong cơ cấu tổ chức hành chính của Nhà nước phong kiến.
Nằm trong làng xã, nhưng dòng họ lại có vị trí tương đối độc lập vì là những cộng đồng rất có ý thức tự quản nội bộ, tự nguyện, tự giác gắn kết với nhau, “chung lưng đấu cật” để xây dựng và phát triển.
Nhìn vào lịch sử phát triển của xứ Nghệ, ta thấy, người Nghệ xưa kia, từng khai hoang lập ấp, phá rừng lấn biển, làm các công trình thủy lợi lớn nhỏ, tiến lên xây dựng các làng nghề thủ công đạt đến trình độ kỹ xảo. Con người xứ Nghệ đã vượt qua thử thách của thiên nhiên khắc nghiệt và kẻ thù tàn bạo để biến một vùng đất khô cằn thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, biến một vùng đất “phên dậu”, “biên trấn” thành một vùng đất văn vật. Nếu không nói là tất cả thì cũng phần lớn là có sự đóng góp đáng kể của các dòng họ.
Trong xã hội thì gia đình vừa là tế bào của xã hội vừa là đơn vị sản xuất kinh tế. Gia đình mở rộng ra là dòng họ. Thông qua mối quan hệ gia đình vào dòng họ mà nông dân trong làng xã hình thành và phát triển nhân cách trong đó có nếp sống, nếp ứng xử giao tiếp giữa cá nhân và xã hội. Dòng họ còn là nơi hội tụ và bảo lưu những giá trị văn hóa riêng biệt và độc đáo, không chỉ để lại những dấu ấn lịch sử mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống hôm nay. Trước hết, giá trị văn hóa ấy được biểu hiện trên cơ sở tình nghĩa sâu nặng giữa những con người cùng huyết thống, gắn bó với nhau theo một quan niệm đơn giản: “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, anh chị em, chú bác cô dì cậu mợ sống “trên kính dưới nhường”.
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần”.
Rồi “chị ngã em nâng”, “Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì”… Từ đó mà hình thành lối sống đẹp:
“Anh em vì tổ vì tiên không ai anh em vì tiền vì gạo”tạo thành một sức mạnh truyền thống và có những hành vi văn hóa thật đẹp đẽ, lành mạnh góp phần làm “thuần phong mỹ tục”, “trên thuận dưới hòa”, “ngoài êm trong ấm” để có thể vượt qua bao trở ngại, thử thách để làm được những việc lớn. Những việc bất trắc khi “trái gió trở trời” lúc “tắt lửa tối đèn” cho đến “ma chay, cưới hỏi” làm nhà, làm cửa… trước khi đưa ra làng xã đều phải qua sự trao đổi, giúp đỡ đóng góp của họ hàng thân quyến.
Rõ ràng là dòng họ đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chãi của người dân xứ Nghệ nhiều khi còn mạnh hơn cả thiết chế làng xã nhất là đối với những dòng họ lớn, đã có truyền thống, những họ có người đỗ đạt cao, có công trạng với dân với nước, làm rạng rỡ uy thanh của họ.
Nếu nói rằng, xứ Nghệ là đất văn hiến “nhân tài tự cổ đa hào kiệt” thì nhân tài này nhiều khi, nhiều nơi tập trung vào một số dòng họ và dòng họ đã có những đóng góp lớn để đào tạo nên những nhân tài ấy. Quả là những họ này đã làm rạng rỡ cho quê hương bởi những tên tuổi mà mãi mãi là niềm tự hào của quê hương đất nước như họ Hồ ở Quỳnh Lưu, họ Đặng, họ Cao ở Diễn Châu, họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương, họ Nguyễn Đình, Nguyễn Đức ở Nghi Lộc, họ Nguyễn Nhân, Nguyễn Trọng ở Nam Đàn, họ Nguyễn Tiên Điền, họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu, và hầu như làng nào, huyện nào cũng có những dòng họ tiêu biểu cho làng đó, huyện đó. Nổi bật lên là văn hoá giáo dục, là truyền thống hiếu học, truyền thống yêu nước cách mạng của dòng họ. Hiếu học, khổ học thành tài là đức tính quý báu của các dòng họ ở xứ Nghệ. Có lúc, có nơi cả nhà, cả họ đều miệt mài, đèn sách mặc dầu đời sống vật chất thật là nghèo khó, thiếu thốn. Có nhà hai anh em đều cùng thi một khoa, có nhà hai chú cháu đỗ đồng khoa. Hơn thế có nhà cả ông, cả con, cả cháu cùng đỗ:
Câu đối:
Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai, khoai ba bữa
Ông đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà.
Hiện tượng đó đáng tự hào không chỉ dành riêng cho một gia đình, một họ mà là cho cả vùng quê, cho bao nhiêu họ trong quê hương xứ Nghệ này.
Văn hoá – yêu nước tạo nên truyền thống cách mạng cũng là một đặc sắc của các dòng họ ở xứ Nghệ. Tình thần trung nghĩa, tính cách ngay thẳng, khí phách kiên cường của con người Nghệ đã khiến họ không chịu được bất công ngang trái mà đứng lên làm cách mạng và cả nhà, cả họ cũng đứng lên nhiệt tình theo đuổi đến cùng lý tưởng cao đẹp vì dân vì nước. Những họ có truyền thống hiếu học cũng là những họ có truyền thống yêu nước cách mạng ở xứ Nghệ cũng rất đông đảo. Về mặt kinh tế, những làng nghề truyền thống xét cho cùng cũng bắt đầu từ những dòng họ và do các họ làm nòng cốt từ những làng dệt Nộn Hồ, Nộn Liễu, Trung Hậu, Quỳnh Đôi, đồ sắt Nho Lâm, đồ gốm chợ Bộng, Trú Ú, đúc đồng Cồn Cát, chiếu cói Dũng Quyết, mộc Ngọc Sơn… đều bắt đầu từ con cháu trong nhà, trong họ rồi mới mở ra làng, ra xã. Và đó cũng là văn hoá; văn hoá – ngành nghề thủ công truyền thống.
Có thể nói rằng, các giá trị văn hoá truyền thống của dòng họ đã từng và sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của quê hương.
Giữa các họ lại luôn luôn có tính đặc thù, không họ nào giống họ nào, phần lớn là do ảnh hưởng của tộc trưởng hoặc người có vai vế, có hiểu biết, có “máu mặt” trong họ quyết định, chi phối. Nó tạo nên một cộng đồng xã hội khép kín về cơ chế quản lý, trong đó hội tụ đầy đủ các yếu tố tâm linh, phong tục tập quán, đạo đức, quan hệ ứng xử… Tất cả những yếu tố đó tạo ra văn hoá dòng họ mặc dầu không phải họ nào cũng rõ nét.
Cũng như làng xã, làng có lệ làng, họ có lệ họ như: không thông gia với những họ kém cỏi, thiếu văn hoá, mất đạo đức. Điều đó làm cho con cháu trong họ phải cố gắng giỏi học hành, rèn luyện, trau dồi đức hạnh, giữ nếp con nhà. Những kẻ “bất giáo hoá”, ăn ở bất hiếu, thất đức thì cả họ lên án, bài trừ, coi như không phải con cháu trong họ, không được đến nhà thờ, không dám ngửng mặt nhìn họ hàng. Nhiều khi lệ luật của họ lại đáng sợ hơn cả pháp luật Nhà nước.
Dòng họ nào cũng muốn lưu lại cho con cháu mai sau những công đức, gương sáng của tiền nhân, danh thơm của họ mình, coi đó như là những của cải tinh thần, những biểu tượng văn hoá đẹp đẽ cần gìn giữ và phát huy. Nhà thờ của họ nào cũng có những liễn câu đối, những bức đại tự đầy vẻ tự hào, thành kính như:
Gia hữu từ đường hương hữu miếu.
Sinh vi địa chủ tử vi thần
(Họ Nguyễn ở Đô Lương)
Đẩu Nam địa viện giang hồ khước
Thần Bắc thiên cao đán mộ tâm
Ninh thành công nghiệp bi tiền thủ
Phúc địa khoa danh chí hậu nhân
(Họ Bùi Công ở Anh Sơn)
Lệ họ đã tạo nên một khuôn phép riêng như tạo ra một sự cưỡng chế giống như luật pháp, hướng con cháu trong họ sống theo quy tắc chung của họ. Họ Nguyễn Văn ở Đô Lương treo giữa từ đường bức đại tự với hai chữ “Trung Tín”. Mở đầu gia phả họ Nguyễn Trọng ở Anh Sơn là hai chữ Hiếu Đễ.
Chữ Hiếu Đễ cho tròn một tiết
Thời suy ra trăm việc đều nên.
Như vậy, nhiều dòng họ, nhất là những họ lớn, trong suốt chiều dài lịch sử quê hương đã tạo nên truyền thống, nét đẹp văn hoá dòng họ góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội nhất là làm đậm đà bản sắc văn hoá xứ Nghệ.
Tuy vậy, khi ý thức dòng họ được đẩy lên quá mức thì cũng sẽ tạo nên nhiều trở lực, hạn chế không ít đến sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá…
Cái quan niệm “một người làm quan cả họ được cậy” đã là cơ sở cho tư tưởng bè phái, vây cánh nảy nở, phát triển, bất chấp cả đạo đức, pháp luật. “Đi việc làng bênh việc họ, đi việc họ bênh việc anh em”; nào là thái độ nể nang, bao che bênh vực cho nhau theo quan niệm “việc họ đóng cửa bảo nhau”; nào là tranh “chiếu trên chiếu dưới” ở chốn đình trung… đã gây ra không ít rắc rối, phiền toái trong sinh hoạt chính trị, xã hội ở nông thôn.
Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội của đất nước, sự quay về với cội nguồn, với việc sinh hoạt dòng họ gần đây ở xứ Nghệ có những mặt tích cực của nó nhất là việc tu tạo nhà thờ, phục hồi lễ tiết trong các ngày đại huý đặc biệt là đối với các họ được đón bằng di tích lịch sử, di tích văn hoá của Nhà nước như họ Hồ ở Quỳnh Lưu, họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương, họ Nguyễn Đình ở Nghị Lộc, họ Uông, họ Nguyễn Sĩ ở Vinh, họ Bạch ở Hưng Nguyên, họ Nguyễn Trường Lưu v.v… và còn bao nhiêu họ khác nữa đang cố gắng hết viết lại gia phả đến viết tiếp lịch sử và những gì có thể được để xin cấp bằng di tích văn hoá, di tích cách mạng của Nhà nước… Những việc làm đó đã làm sống dậy trong tâm trí nhân dân niềm thiết tha, tự hào, hướng về tiên tổ, hướng về thiện tâm. Rồi những ngày họp họ, những ngày giỗ tổ, những dịp tảo mộ, những đợt tu sửa nghĩa trang, những chuyến hành hương của con cháu làm ăn nơi xa về nơi cội nguồn đã hướng mọi người về một nền văn hoá tâm linh. Vừa hào hứng, sôi nổi, thiết tha vừa sâu lắng và thiêng liêng cảm động. Việc làm đó chứng tỏ con người xứ Nghệ luôn thuỷ chung, mắt nhìn xa, chân bước mạnh mà lòng vẫn không quên cội nguồn, không quên tiên tổ, ông bà và bà con trong họ, trong làng. Hình ảnh tộc trưởng, hội đồng gia tộc hăng say tự nguyện phục hồi lại sinh hoạt của họ mình cũng thật đáng ghi nhận.
Giữa bao nhiêu hiện tượng lai căng, mất gốc, phi văn hoá, phản lại nhân văn của một số người hợm của, khoe giàu, hãnh tiến, chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, đục khoét moi móc tiền của Nhà nước, của nhân dân, chạy theo cuộc sống xô bồ, hỗn loạn của xã hội kinh tế thị trường thì những việc làm trên đây của các dòng họ cùng với phong trào do những chủ trương đúng đắn của Nhà nước đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước, đối với các bà mẹ anh hùng, rồi phong trào thi đua làm việc thiện dấy lên khắp nơi trong nước… đã góp phần giữ gìn “thuần phong mỹ tục”, góp phần giáo dục tình nghĩa ăn ở nhân đức.
Thế nhưng cũng cần chú ý rằng, trong xu thế đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, tiến tới một xã hội tốt đẹp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công bằng, văn minh, nếu không dè chừng thì vấn đề sinh hoạt dòng họ ở xứ Nghệ cũng sẽ gây không ít cản trở. Những hiện tượng tái hiện hủ tục, cầu cúng lễ hội cầu kỳ, xa xỉ, chè chén linh đình tiến đến phô trương thanh thế, kéo bè, kéo cánh, phân phối chức quyền theo dòng họ, thậm chí “chi bộ Đảng” cũng bị chi phối bởi uy quyền của dòng họ đều là những biến tướng, những mặt trái của sinh hoạt dòng họ.
Mặt khác, nếu nói rằng, những ưu điểm trong cốt cách tinh thần của con người xứ Nghệ đã làm nên một nền văn hoá đặc sắc xứ Nghệ và cũng chính là những ưu điểm ấy lại kéo theo những “phụ phí” sẽ cản trở không ít bước đi lên của hôm nay thì cũng phải nói thêm rằng, trong đó yếu tố văn hoá dòng họ xứ Nghệ có ảnh hưởng không nhỏ vào việc hình thành cốt cách tinh thần ấy. Bên cạnh những phẩm chất cao đẹp như “lí tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt” (chữ dùng của giáo sư Vũ Ngọc Khánh) thì cái tính cách “rạch ròi đến mức khô khan, cực đoan đến mức toán học” (chữ dùng của giáo sư Phan Ngọc) dẫn đến tính bảo thủ sẽ cản trở không ít đến việc đổi mới tư duy hôm nay.
Trước tình hình ấy, chúng tôi nghĩ rằng trong việc phục hồi văn hoá dòng họ hiện nay, chúng ta cần có sự định hướng của cơ quan chức năng, cần tạo được mô hình chung cho các họ nhất là về các lễ tiết, các hình thức sinh hoạt sao cho đúng với ý nghĩa văn hoá thật sự đậm đà bản sắc xứ Nghệ rất cổ xưa mà cũng rất văn minh, hiện đại.
Nguồn: Khoa học và Ứng dụng (LHH Nghệ An), số kỷ niệm 25 năm thành lập LHH Việt Nam , tr. 14